Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm A

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”. (Ga 20, 19-31)

Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm A
Kính Lòng Chúa Thương Xót

Ga 20, 19-31


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm A
Kính Lòng Chúa Thương Xót

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến,

Sau khi Phục Sinh, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là ban bình an cho các ông. Bình an là một trong những yếu tố cần thiết và quan trọng trong đời sống con người, nhất là bình an nội tâm. Nó mang tính riêng tư, không ai có thể xâm phạm. Dù sống trong thế giới đầy chiến tranh, loạn lạc, khủng bố đến đâu, nếu ta có bình an trong tâm hồn thì ta vẫn luôn được bình an. Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa chúc bình an cho các Tông Đồ là thứ bình an này. Hôm nay Hội Thánh kính lòng thương xót Chúa mà Thánh nữ Fautina đã được Chúa trao sứ mệnh loan truyền, mỗi người chúng ta hãy trông cậy vào lòng thương xót Chúa để năng chạy đến Bí tích Hòa Giải, vì Chúa đã phán với Thánh nữ; Cha chỉ nhìn hiện tại của con thôi. Tin tưởng vào lòng thương xót Chúa chúng ta cùng sốt sáng tham dự Thánh Lễ này, để cùng cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa luôn trải rộng trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

Ca nhập lễ

Như trẻ sơ sinh, anh em hãy ao ước sự thiêng liêng không phôi pha, để nhờ đó anh em lớn lên trong ơn cứu độ – Allêluia.

Hoặc đọc:

Anh em hãy nhận lãnh niềm vui vinh quang của anh em, hãy tạ ơn Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào nước trời – Allêluia.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa phục sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: chính Chúa Kitô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, đã tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Bài Ðọc I: Cv 2, 42-47

“Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 13-15. 22-24

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.

Xướng: Tôi đã bị đẩy, bị xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.

Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.

Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 3-9

“Nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Ðức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã dùng sự Phục Sinh của Con Chúa để khai mở một cuộc sống vĩnh cửu cho chúng ta. Trong ngày Hội Thánh tuyên hiển thánh cho hai Chân phúc Giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II, chúng ta cùng hân hoan ca ngợi lòng thương xót Chúa và dâng lời cầu nguyện.

1. Chúa Kitô Phục Sinh đã sai các Tông đồ ra đi để ban ơn tha tội. Xin cho các thừa tác viên trong Hội Thánh luôn theo gương hai tân hiển Thánh Giáo hoàng, để trung thành với sứ vụ giao hòa và trao ban lòng thương xót Chúa cho mọi người.

2. Chúa Kitô Phục Sinh đã ban bình an cho các môn đệ đang sống trong sợ hãi. Xin cho các vị lãnh đạo chính quyền, được khích lệ bởi tấm gương xây dựng hòa bình của hai Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II, biết mang lại hòa giải và bình an cho những nơi chiến tranh và hận thù.

3. Chúa Kitô Phục Sinh chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Xin cho các tín hữu biết noi gương hai Thánh Giáo hoàng, để luôn vững tin vào Chúa Phục Sinh và nhận ra Người trong bí tích Thánh Thể và trong những người nghèo khổ.

4. Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện diện trong cộng đoàn tín hữu tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem và làm cho họ nên một. Xin cho chúng ta biết noi gương hai Thánh Giáo hoàng để làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng đời sống hiệp nhất và liên đới trong cộng đoàn đức tin.

Chủ tế: Lạy Chúa là Cha chúng con, xin giúp chúng con vững tin vào Đức Kitô và vượt qua thử thách gian nan, để trên cuộc lữ hành trần thế, mặc dầu không thấy Người chúng con vẫn luôn cảm nghiệm lòng Chúa xót thương. Người hằng sống và hiển trị muôn đời .

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận lễ vật của chúng con (và đặc biệt là của những anh chị em tân tòng) Chúa đã cho mọi người chúng con được đổi mới nhờ đức tin và nhờ bí tích thánh tẩy, xin cũng dẫn đưa chúng con tới hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng Phục Sinh I

Ca hiệp lễ

Con hãy xỏ ngón tay vào đây, hãy nhìn xem những vết đinh, và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin – Allêluia.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Thánh Ðức Kitô là Ðấng đã chết và sống lại để ban sự sống đời đời cho thế gian. Cúi xin Chúa làm cho ân huệ quý báu này được tồn tại mãi trong tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
CẢM NGHIỆM VÀ LOAN TRUYỀN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH, NĂM A

(Cv 2, 42- 47; Pr 1, 3- 9; Ga 20,1 9- 31)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Hôm nay, toàn thể nhân loại ngập tràn lòng thương xót Chúa, bởi vì hôm nay là ngày mà mọi cánh cửa của lòng thương xót được mở ra để ấp ủ những ai tín thác nơi Chúa như lời Ngài đã phán với thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699).

Các lỗ đinh ở chân tay và vết đâm từ cạnh sườn Đức Giêsu mà hôm nay Ngài tỏ ra cho Tôma được thấy đã mạc khải cho chính Tôma và cả chúng ta thấy lòng thương xót vô bờ của Ngài dành cho nhân loại.

1. Lòng thương xót của Chúa dành cho Tôma

Thánh sử Gioan hôm nay trình thuật sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, trong đó có Tôma. Hình ảnh Tôma được hiện lên như là nhân vật chính trong bài Tin Mừng hôm nay. Nói cách khác, nếu không có thắc mắc đến độ thách thức của Tôma thì có lẽ chưa chắc đã có lần hiện ra này của Đức Giêsu! Bởi vì: trước đó, sau khi nghe các Tông đồ khác thuật lại việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, Tôma đã không tin. Ngược lại, ông còn tuyên bố thật thẳng thừng rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).

Tôma thuộc típ người thực nghiệm, tức là không thể tin nếu không mắt thấy, tai nghe, tay sờ. Lý do chính yếu làm cho Tôma không thể tin nổi việc Đức Giêsu sống lại, đó là: ông đã hiểu sai về sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế, lời tiên báo của Đức Giêsu trước đó không lay động gì với suy nghĩ của ông về con người vĩ đại của Đức Giêsu.

Quả thật, ông hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo kiểu trần gian, tức là một người quyền thế chứ không phải là người yếu đuối như vậy.

Khi hiểu như thế, ông đã hoàn toàn thất vọng về cái chết của Thầy mình. Ông không còn tin tưởng vào tương lai. Vì vậy, khi nghe các Tông đồ báo tin Thầy đã sống lại và đã hiện ra với họ, trong ông luôn luôn nghĩ là điều hoang tưởng. Chính sự nghi ngờ này đã làm cho ông dám cả gan thách thức Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri!

Chúa thương Tôma vì Ngài hiểu được sự yếu đuối và tham sân si của ông. Ngài không trách và cũng không lên án, nhưng ngược lại, Ngài đã yêu thương ông bằng tình yêu đặc biệt.

Vì thế, chúng ta không lạ gì khi lần này hiện ra, Đức Giêsu đã nhắm thẳng vào Tôma với lòng trìu mến ông cách đặc biệt, đồng thời Ngài cũng củng cố lòng tin nơi ông, nên Ngài nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27).

Sự nghi ngờ tan biến khi lòng thương xót của Đức Giêsu phủ lấp trên con người và tâm trí Tôma. Vì thế, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Lời thốt lên này cho thấy ông thật ngỡ ngàng trước lòng thương xót đặc biệt của Đức Giêsu dành cho ông. Mặt khác, đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đấng Phục Sinh.

Như vậy, trước đó, Tôma đã cứng lòng không chịu tin. Nhưng khi Đức Giêsu tỏ lòng thương xót của Ngài cho ông, ông đã hoàn toàn thay đổi và xác tín niềm tin của mình vào Chúa cách mạnh mẽ.

Còn chúng ta ngày nay khi đứng trước lòng thương xót của Thiên Cháu, chúng ta có thái độ nào?

2. Thực trạng niềm tin nơi xã hội hôm nay

Xã hội ngày càng phát triển, con người luôn đề cao tri thức, khoa học thực nghiệm, hiện sinh. Nhân loại đang có chủ chương giải nghi huyền nhiệm. Chính vì điều này mà con người hôm nay bị đóng khung bởi những kiến thức thực dụng.

Ngày nay, con người ít muốn nhắc đến niềm tin tôn giáo. Họ cũng chẳng cần để ý đến những dấu chỉ thời đại. Và ít khi nghĩ đến việc phải thi hành bổn phận về lòng thương xót.

Biết bao nhiêu mặc khải về tình thương của Thiên Chúa, nhưng đã bị con người bỏ qua. Biết bao nhiêu lời mời gọi tương thân tương ái của Giáo Hội, nhưng vẫn chỉ có những ngọn lửa leo loét trong màn đêm dày đặc. Biết bao nhiêu lời mời gọi xây dựng hòa bình trong sự thật và công bằng, nhưng cũng chỉ như tiếng kêu lạc lõng giữa rừng sâu!

Khác với Tôma, con người ngày nay luôn tìm mọi cách để giải nghi huyền nhiệm. Họ muốn quy chiếu tất cả vào khả năng của con người. Tuy nhiên, sự thật cho thấy, con người đã thất bại nặng nề khi khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Con người đã bị thiên nhiên quay lưng lại khi không biết vận hành theo trình tự của Thiên Chúa tạo hóa.

Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi nhìn ra xã hội hôm nay với bức tranh phân hóa giàu nghèo ngày càng nổi cộm. Hố sâu hay bức tường cao là những thứ được đào và xây lên bởi sự ích kỷ, kiêu ngạo của con người để loại trừ, phân biệt… Sự vô cảm, lạnh nhạt, thiếu tình thương đang dần trở thành căn bệnh thời đại. Sự bất an và mất hạnh phúc khi con người nhân danh chiến tranh để xây dựng hòa bình mà bỏ qua công lý và sự thật đang ngày càng leo thang… Và biết bao đau thương khác đang ngày đêm diễn ra trong xã hội loài người chỉ vì thiếu đi sự cảm nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa như Tôma khi xưa.

3. Người Kitô hữu và lòng thương xót

Đứng trước thực trạng đó, người Kitô hữu được mời gọi xác tín ngày càng mạnh mẽ niềm tin của mình vào Thiên Chúa, nhất là biết nhạy bén với các dấu chỉ thời đại để loan truyền lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người và thế giới hôm nay.

Thật vậy, lúc này, hơn bao giờ hết, trong một xã hội muốn loại trừ Thiên Chúa như vậy, chúng ta được mời gọi trở nên khí cụ của lòng thương xót; trở nên ngọn hải đăng soi sáng cho những con thuyền đang chơi vơi giữa đại dương mênh mông; là chiếc la bàn trong rừng sâu để chỉ dẫn cho những ai mất định hướng; là biển chỉ đường cho những ai muốn tìm về Chân Thiên Mỹ; là tấm bánh cho những ai đói nghèo; là ly nước cho những ai đang khát; là mái nhà cho những ai không chỗ nương thân; là niềm hy vọng cho những ai thất vọng; là điểm tựa cho những ai mất niềm tin…

Muốn làm được điều đó, mỗi người chúng ta hãy có tâm tình của chính thánh Tôma khi đối diện với lòng thương xót của Đức Giêsu, đó là biết thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28).

Mong thay mỗi người chúng ta sẽ là những người nhận ra lòng thương xót vô biên của Chúa như thánh Tôma khi xưa. Đồng thời biết làm chứng về lòng thương xót ấy cho mọi người xung quanh. Amen.
 

THƯƠNG XÓT ĐEM LẠI BÌNH AN
“Bình an cho anh em, rồi Người bảo ông Tôma:
đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy…(Ga 20, 26-27)

Suy niệm: Thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã đặt Chúa Nhật II Phục sinh làm ngày kính lòng Chúa thương xót. Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta dung mạo của lòng thương xót của Chúa. Chúa Ki-tô, Đấng phục sinh hiện ra với các tông đồ một lần nữa, lần này có cả Tô-ma, người đã không tin. Chúa không trách mắng các môn đệ vì họ đã nhát sợ trốn chạy khi Ngài chịu khổ nạn. Ngài đến để củng cố lòng tin yếu kém của họ. Ngài chiều ý cả Tô-ma, cho phép ông đụng chạm đến dấu đinh và vết thương cạnh sườn để phá tan sự sợ hãi, hoài nghi của ông. Lòng thương xót của Chúa không muốn bất cứ ai, dù chỉ một người, bị loại khỏi cộng đoàn những người tin để được cứu độ. Chính lòng thương xót đó đã giúp Tô-ma được biến đổi hoàn toàn, và ông đã tuyên xưng thật mạnh mẽ: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi.”

Mời Bạn: Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chứng tích tình yêu của bạn đi! M. Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế. Thật vậy để làm chứng cho lòng thương xót Chúa Giê-su Phục Sinh, chúng ta chỉ cần thực hiện giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).

Sống Lời Chúa: Đem lời chúc bình an trong thánh lễ thành việc làm đem bình an đến cho những người bạn gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh! Xin xua tan bón đêm sợ hãi trong tâm hồn chúng con và ban cho chúng con bình an của Chúa. “Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su Ki-tô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới!”


 

Tin
Sưu tầm

Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.

Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.

Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:

- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.

Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:

- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.

Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.

Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.

Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.

Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.

Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.

Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất...

Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.

Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.

Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.

Chúa Nhật II Phục Sinh
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
 
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20, 19-31).
 
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
 
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
 
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
 
Suy niệm
 
Chúng ta đang bước vào tuần thứ hai sau Chúa nhật phục sinh. Phụng vụ Lời Chúa trong tuần này, mời chúng ta trở lại với những lời chứng của các Tông đồ, các môn đệ và những người đi theo Chúa Giêsu khi Ngài còn hiện diện trên dương thế, đặc biệt, Lời Chúa mời chúng ta đến chứng kiến những ngày sinh hoạt của các cộng đoàn Giáo hội sơ khai ban đầu.
 
Cuốn sách Tông Đồ Công Vụ được coi là cuốn Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, bởi nội dung trình bày cho chúng ta những hoạt động của các Tông đồ, các cộng đoàn ban sơ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Khởi đi từ các Tông Đồ, các ông đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy trong đau khổ, nhục nhã và tang thương, rồi sau đó, được gặp lại Thầy trong vinh quang của Thiên Chúa khi Thầy sống lại. Niềm tin của các ông sau vụ án rất mong manh, thậm chí còn nhiều hoài nghi. Thế nhưng, khi Chúa Thánh Thần dẫn các ông đi vào chương trình loan Tin Mừng phục sinh, các ông bắt đầu cảm nghiệm tất cả những gì Thầy mình đã loan báo, tất cả những gì Thầy đã nhận chịu, sẽ trở thành lời chứng hùng hồn. Các ông đã thiết lập các cộng đoàn tín hữu, trong đó có cả người Do-thái và dân ngoại, nhưng hàng rào kỳ thị không còn nữa, họ sống với nhau trong tình huynh đệ gia đình. Họ sống được vậy là nhờ lời chứng của các Tông đồ, bởi các ông là những người đã được gặp Chúa phục sinh, Ngài đang sống và đồng hành, do đó, các ông luôn tin tưởng Ngài vẫn hiện diện với các ông giữa cộng đoàn: “Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung”. Điều đặc biệt là các Tông Đồ đã làm chứng được rằng Đức Giêsu Kitô, người đã sống với các ông trong thời gian công khai, cũng là Đấng đã chết, đã sống lại và nay đang sống giữa các cộng đoàn. Sự hiện diện thiêng liêng của Đức Giêsu phục sinh đã liên kết mọi thành phần trong cộng đoàn lại với nhau thành một gia đình. Đó là những gì Tin Mừng phục sinh hướng đến. Một gia đình của Thiên Chúa ở trần gian.
 
Tình liên đới cộng đoàn là yếu tố giúp nhau mỗi ngày hoàn thiện ơn gọi chứng nhân Tin Mừng phục sinh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, bởi vậy, thánh Tông Đồ Phêrô, trong vai trò là tông đồ trưởng, đã nhắc nhở các tín hữu hãy ý thức rằng, họ được cứu độ nhờ tình thương của Chúa Cha, nhờ máu của Đức Giêsu Kitô, đấng đã chết vì con người, từ đó, họ được sống trong niềm hy vọng vào sự sống đời đời, nhưng đó cũng là trách vụ của mỗi người, loan báo Tin Mừng đó cho những người chung quanh: “nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết”. Các cộng đoàn Giáo hội sơ khai bao gồm những anh chị em dân ngoại trở về, cùng sum họp bên cạnh các Tông đồ, dưới sự hướng dẫn của các ông, họ chia sẻ cuộc sống với nhau về vật chất, động viên nhau vượt qua những thách đố về tinh thần. Trong vai trò là người đại diện của Thiên Chúa, thánh Phêrô động viên họ hãy đón nhận cả những niềm vui và những khó khăn, để đồng hành với Thầy Chí Thánh là Đức Kitô trong mầu nhiệm tử nạn, bởi nếu không có mầu nhiệm tử nạn sẽ không bao giờ có mầu nhiệm phục sinh: “Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Ðức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn”. Lời động viên của thánh Tông đồ trưởng như thổi một luồng gió mới vào sức sống của các cộng đoàn, từ đây tình liên đới, tình hiệp nhất trong các cộng đoàn nâng lên từng ngày.
 
Câu chuyện về niềm tin của Thánh Thomas luôn là một đề tài nhắc cho ai có thái độ nghi ngờ vào lời chứng của người khác. Thực ra, thánh nhân muốn có một sự nhất thống giữa Đức Giêsu Nazareth đã chịu chết và Đức Giêsu Kitô phục sinh là một con người. Từ những lời chứng của các Tông đồ, thánh nhân còn chút băn khoăn đó có phải là hai hay chỉ là một người duy nhất, do đó, có thể nói rằng, thánh nhân mong được đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi mỗi bàn tay, đặt bàn tay vào cạnh sườn của Thầy, để minh định cách rõ ràng, đó là một con người, là Thầy Chí Thánh của mình, Đấng được gọi là Đức Giêsu Kitô, đã chết và nay đã sống lại và đang bên cạnh các anh em mình: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Để có thể xác tín được niềm tin đó, mỗi người cần có sự bình an trong tâm hồn, bởi lúc đó ai cũng đang trong tâm trạng lo sợ, hãi hùng. Đức Giêsu đã đem đến cho họ món quà nhưng không từ trời, đó là sự bình an của Thiên Chúa. Khi nhận lãnh sự bình an đó, người môn đệ không còn bị chi phối bởi những yếu tố khác từ xã hội, từ cuộc sống, không còn bị áp lực từ những người lãnh đạo tôn giáo, khi họ tin vào một Đấng đã bị những người đó kết án tử, bị đóng đinh, và hôm nay các ông khẳng định Ngài đã sống lại.
 
Ngày hôm nay, đặc biệt trong đại dịch này, con người luôn sống trong nỗi bất an, sợ hãi, sợ virus tấn công lúc nào không hay, sợ bị cách ly, sợ bị giãn cách xã hội tiếp theo, sợ thất nghiệp sau đại dịch, sợ đói, sợ khát, sợ mất mùa và bao nỗi sợ khác đang xâm chiếm tâm hồn các tín hữu Kitô. Vậy có phải lúc này, mọi người đang rất cần đến sự bình an của Thiên Chúa do Đức Giêsu phục sinh đem đến không? Có thể nói chính lúc này, sự bình an đó là một là một món quà vô giá mà nhân loại đang đói, đang khát. Cũng chính trong hoàn cảnh này, người tín hữu Kitô cần minh định lại đấng mình tin tưởng, đó có phải là Đức Giêsu Kitô phục sinh, đấng đã chết, đã bị treo trên thập giá, đó là hai con người hay chỉ là một, bởi có những lúc niềm tin chưa thực sự xác tín của con người cho rằng đó là hai nhân vật, hai con người. Đức Giêsu Nazareth đã sống gần gũi với mọi người, đã chia sẻ mọi khó khăn, mọi đau khổ với con người trong mọi tầng lớp của xã hội và toàn thể các dân tộc, thì Đức Giêsu Kitô phục sinh, Ngài cũng sẽ hiện diện gần gũi, thiêng liêng với con người, với Giáo hội, với thế giới. Đó là điều thế giới hôm nay cần học nơi thánh Thomas, để niềm tin của mỗi người trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt trong đại dịch nguy hiểm này, chúng ta chấp nhận và tin tưởng rằng, trong thế giới luôn có sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh, của Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ con người không đơn độc, con người không bị bỏ rơi, con người không bị trừng phạt vì tội lỗi như quan niệm của thế gian.
 
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã đem sự bình an đến cho các môn đệ khi các ngài ngụp lặn trong bao nỗi sợ hãi từ tôn giáo cho đến cộng đoàn và xã hội. khi được nhận món quà đó, họ đã can đảm, mạnh mẽ vượt qua những cánh cửa bấy lâu đóng chặt, để lên đường loan tin mừng phục sinh cho tha nhân, dù sẽ đối diện với muôn vàn rủi ro, xin Chúa cũng ban cho chúng con món quà bình an đó mỗi ngày, để chúng con dám vượt lên mọi nỗi sợ hãi, sống ơn gọi của mình xác tín và đúng đắn hơn. Chúa đã cho thánh Thomas xem các lỗ đinh, xem vết thương cạnh sườn để giúp ông và các tông đồ liên kết niềm tin khởi đi từ mầu nhiệm tử nạn, đến mầu nhiệm phục sinh, xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được sự gần gũi và thánh thiêng của Chúa phục sinh, như Chúa đã gần gũi với mọi người Do-thái khi sinh thời, và niềm tin của chúng con được củng cố vững bền hơn. Amen.


HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH ABC

Cv 2, 42-47; 1 Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31
LM ĐAN VINH

 


LÒNG THƯƠNG XÓT - PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 20, 19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin!” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:

- LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).

- LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin! (29)

3. CHÚ THÍCH:

- C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Từ nay ngày Chúa Nhật sẽ thay thế cho ngày Thứ Bảy (Sa-bát) hưu lễ của Do-thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20, 19.21) và niềm vui (x Ga 20, 20) cho các Môn đệ (x Ga 14, 27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19, 18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19, 34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

- C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho Hội Thánh. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các phép bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1, 29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9, 6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thổi hơi để ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của mình.

- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10, 3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11, 16). Ông thường nêu ra thắc mắc để xin Thầy giải đáp (x.Ga 14, 5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20, 25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Tin Mừng Mat-thêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28, 17); Tin Mừng Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16, 14); Tin Mừng Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24, 38).

- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người lại thông cảm và kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.

- C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất như sau: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19, 35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì tin vào mầu nhiệm ấy.

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật để thay ngày Thứ Bảy (Sa-bát) của đạo Do-thái? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Chúa phục sinh có đặc tính gì? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và từ khi nào? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma? 9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su không? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của tông đồ Tô-ma? 11) Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn vào mầu nhiệm phục sinh qua câu nói nào? 12) Sự cứng lòng của Tô-ma xưa có giá trị thế nào đối với đức tin của tín hữu hôm nay?


II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20, 31).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐI THEO ĐẠO DO CẢM NGHIỆM ĐƯỢC LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA:

Có một phóng viên của một tờ báo chủ trương vô thần chống đối tôn giáo. Một hôm anh ta tìm đến gặp một người tân tòng để làm một cuộc phỏng vấn viết bài chống lại đạo. Anh hỏi người tân tòng:

- “Ông mới chịu phép rửa tội để gia nhập đạo Chúa phải không?

- Vâng.

- Thế thì chắc ông đã phải có kiến thức và hiểu biết nhiều về ông Giê-su. Vậy ông hãy cho tôi biết: ông Giê-su là người nước nào?

- Rất tiếc. Nghe đâu Đức Giê-su là người Do-thái thì phải!

- Thế ông Giê-su đi giảng đạo được mấy năm và chết năm bao nhiêu tuổi?

- Tôi có nghe nói nhưng không nhớ rõ lắm.

- Vậy, anh có biết nội dung các bài giảng của ông Giê-su hay không?

- Điều này thì tôi xin chịu!

- Như vậy là anh đã biết quá ít và mơ hồ. Vậy tại sao ông lại quyết định đi theo đạo của ông Giê-su?

- Anh nói như vậy cũng chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước đây, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, lại còn bị mắc nợ chồng chất không thể trả nổi. Mỗi tối, khi tôi về nhà trong tình trạng lè nhè, vợ và các con tôi đều bực tức và buồn tủi… Nhưng bây giờ thì tôi đã dứt khoát với quá khứ không tốt ấy: Tôi chừa được tật nghiện rượu và đã trả được hết nợ nần. Nhờ quen với một vị linh mục và vị này đã tận tình giúp tôi làm lại cuộc đời. Bây giờ gia đình tôi đã lấy lại niềm vui và hạnh phúc. Mỗi buổi chiều các con tôi đều mong đợi tôi về nhà sau ca làm. Tất cả những điều này, tôi xác tín là do Chúa Giê-su đã thương ban cho tôi. Và đó là lý do tại sao tôi quyết định theo đạo…

Nghe đến đó anh phóng viên đành hậm hực ra về. Anh không ngờ lại gặp một người tín hữu có một đức tin mạnh mẽ vào Đức Ki-tô như thế

2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan ra thuyết phục thiên hạ nhưng chẳng có ai tin theo tôn giáo của ông. Ông bèn than thở với anh bạn thân là Na-pô-lê-ông thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh muốn người ta tin theo đạo của anh thì cũng dễ thôi: Anh hãy làm như thế này: Thứ năm hãy ăn bữa tiệc cuối cùng, rồi thứ sáu để người ta đóng đinh trên khổ giá rồi chôn cất trong mồ. Rồi đến ngày Chúa nhật thì sống lại! Chắc chắn sẽ có rất đông người tin theo đạo của anh!”.

Điều có sức lôi cuốn thuyết phục người ta tin theo chính là phục sinh từ cõi chết.

3) LÀM CHỨNG BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA:

Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm thủy thủ trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào Chúa.

Trong ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai như sau: “Chúa đặt con trên con tàu này là để con làm chứng nhân cho Người”.

Từ ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại, cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.

Một lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa!” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng hãy hồi tâm sám hối quay về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về với Chúa.

4) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO:

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục quỳ đọc kinh không?

Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống hay sao?”

Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết anh là người Công giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có mình anh là người Công giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.

Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:

– Đến nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà tôi từng biết.

Anh đáp:

– Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt nhất, mà chỉ là người dám công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. (Trích Tuyển tập chuyện hay).

3. THẢO LUẬN: Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, mỗi người chúng ta cần làm gì để giúp anh em lương dân tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ?

4. SUY NIỆM:

1) LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:

- Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Chúa Thương Xót. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Ma-ri-a Faus-ti-na được phong thánh. Nữ tu này đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giê-su và bà đã diễn tả để vẽ lên bức hình của Chúa Thương Xót với hàng chữ: “Lạy Chúa Giê-su, Con tín thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giê-su đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Người phát tỏa ra hai luồng sáng là màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn, khi Trái Tim Người bị lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Ánh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn.

- Chúa Giê-su đã đặt nữ tu Faus-ti-na là thư ký và tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót. Người cho biết: Lòng Thương Xót của Người luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất và cả với người tuyệt vọng nhất. Người mong muốn mọi người hãy đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn nhận được ơn tha thứ trong ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì “Tình thương mạnh hơn tội lỗi”.

2) SỨ ĐIỆP CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:

- Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra và giúp tất cả các môn đệ được ơn hoán cải. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tất cả các ông đều bị vấp ngã: Các ông chạy trốn, vào trong nhà đóng cửa kỹ vì sợ người Do thái. Chính khi đó, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Người không những chữa lành vết thương tâm hồn qua lời chào chúc: “Bình an” và thổi hơi ban Thần khí (Ga 20, 19-20), mà Người còn sai họ đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đây chính là bằng chứng Lòng Chúa Thương Xót dành cho các ông.

- Riêng tông đồ Tô-ma còn cảm nghiệm được Lòng Chúa Thương Xót khi Người cho ông không những được nhìn thấy Chúa như các môn đệ khác, mà còn đáp ứng đòi hỏi của ông được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Trước tình thương của Chúa, Tô-ma đã biểu lộ lòng tin yêu qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Quả thực đúng như có người đã nói: “Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; chính bàn tay đa nghi của ông đã dạy cho mọi người sự thật này là: Chúa Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy”.

3) MẦU NHIỆM PHỤC SINH VÀ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG:

- Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của các môn đệ, nên họ không thể không chia sẻ cho người khác: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã chạy về báo tin cho Phê-rô và Gio-an rồi hai ông đã chạy ra mộ và đã đạt được đức tin; Chúa Phục Sinh cũng khiến hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan tin mừng các anh em; Và sau này, sau khi gặp Chúa Phục sinh tại thành Đa-mát, Sau-lô từ một kẻ bách hại đạo Chúa đã trở thành tông đồ hăng say đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại…

- Loan báo Tin Mừng là thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa nhờ ơn Thánh Thần như lời Chúa Giê-su: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).

4) LOAN BÁO TIN MỪNG BẰNG THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT:

- Đức Thánh Cha Phao-lô VI dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự khi chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn rầu? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng khi chính người rao giảng lại ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại sống ích kỷ vô cảm, khi gia đình họ lại luôn bất hòa và đổ vỡ hạnh phúc?

- Trong ngày Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ gặp phải trong cuộc sống như: bệnh tật, tai ương hoạn nạn và những điều rủi ro trái ý… kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su trên cây thập giá, để đền tội chúng ta và mọi người. Hãy noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai làm chứng về lòng Chúa thương xót bằng nếp sống như sau: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2, 42-47).

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chính sự phục sinh của Chúa động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi gương Thiên Chúa giàu lòng thương xót: luôn gieo sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo niềm an ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát, giúp những ai đang lạc xa Chúa được mau trở về để nhận được ơn cứu độ của Chúa cùng với chúng con. – AMEN.


Chúa Nhật II Phục Sinh -A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20, 19-31).

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Suy niệm

Niềm vui vỡ òa khi các anh em cùng nhau chia sẻ những lần gặp Thầy sống lại, cùng chia sẻ những câu chuyện trước đây Thầy dặn dò, nhắc nhở và hôm nay trở thành hiện thực. Các Tông đồ như được ngập tràn trong niềm hạnh phúc, bởi họ được gặp lại Thầy sau biến cố tang thương, tưởng như không bao giờ được gặp lại Thầy quý yêu. Có một người học trò chưa được diễm phúc gặp Thầy, đó là Thomas, dù nghe anh em kể lại rất nhiều, người học trò này vẫn bán tín bán nghi, chưa thể chấp nhận một sự thật xem ra hoang tưởng. Trong sự hoài nghi để được lớn lên đó, Thầy Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô đã hiện ra, gặp lại tất cả anh em, trong đó có người học trò đang nghi ngờ. Lần gặp gỡ này đã thay đổi cuộc đời của anh ta, đồng thời thay đổi niềm tin cho những ai là Kitô hữu hôm nay, đang có những hoài nghi, những trăn trở về Đấng đã chết, nhưng nay được cho là đang sống.

Trở lại với những sinh hoạt của buổi bình minh Giáo hội, sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật những bước chân ban đầu của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi Ba đã làm thay đổi tâm hồn, nhận thức và trái tim của các Tông Đồ, sau khi các ông được gặp lại Thầy. Với kinh nghiệm bản thân, cộng với sự tác động của Chúa Thánh Thần, các tín hữu đã tìm thấy chính mình, khi đi trên con đường mang tên thập giá với Đức Giêsu, để rồi kết thúc con đường đó, họ được ngập tràn trong hạnh phúc của mầu nhiệm phục sinh: “Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người”. Giá trị của con người là biết mình như thế nào và là gì trong thế giới này, Chúa phục sinh đã khai sáng tâm trí và mở ra cho con người một tương lai mới, đó là được tự do trong Thiên Chúa, chứ không còn bị lệ thuộc vào những yếu tố của thế gian.

Từ kinh nghiệm của bản thân, thánh Phêrô đã chìm sâu trong niềm vui phục sinh và ân sủng của Thánh Thần, để rồi ngài chia sẻ với tất cả con cái trong các cộng đoàn Giáo hội thuở ban đầu, những niềm vui tinh thần khi tin nhận Thiên Chúa và đồng hành với Đức Giêsu trên con đường thập giá. Thái độ cúi xuống của Thiên Chúa, đã nâng phẩm giá con người lên một tầm cao mới, nơi đó, con người mang trong mình hơi thở của Thiên Chúa, sự sống của Ngài và hạnh phúc cũng đến từ trời cao: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết”. Để có thể đón nhận biến cố Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, không phải là một điều dễ dàng đối với người tín hữu Kitô vào buổi đầu của Giáo hội, nhưng Chúa Thánh Thần đã có những kế hoạch hết sức thú vị, đó là chương trình của tình yêu, để rồi con người nhận ra nhau là anh chị em, là con cái cùng một gia đình thiêng liêng, tất cả được sống trong mái ấm gia đình của Thiên Chúa.

Thánh Gioan đã tường thuật cuộc gặp gỡ rất thú vị giữa Đức Giêsu phục sinh và các Tông đồ, đặc biệt là cuộc trò chuyện giữa Ngài với anh Toma. Với nhiều nguồn tin từ các người thân, từ các anh em trong cộng đoàn, các Tông đồ đã chấp nhận lời đồn đoán về việc Thầy mình đã sống lại, nhưng tất cả chỉ là trong trí tưởng tượng. Hôm nay, họ được gặp Thầy bằng xương bằng thịt, trên tay chân còn có cả dấu đinh và vết thương cạnh sườn. Nay không còn là lời đồn mà là sự thật: “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”. Đúng là Thầy rồi, một Đức Giêsu đã bị kết án tử, đã bị treo trên thập giá, đã chết và nay đã sống lại. Đó là một con người, một nhân vật chứ không là hai. Họ đã tin chứ không còn hoài nghi. Lời chứng của họ đã tác động lên người bạn là Toma, anh ta không chấp nhận sự việc theo cảm tính, nhưng phải được kiểm chứng, vì thế, anh đã được đưa ngón tay mình vào lỗ đinh và cạnh sườn của Thầy mình. Quả thực Thầy mình đã sống lại: “Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Thầy ơi, con tin thật, Thầy là Đấng đã gọi và chọn con làm môn đệ, Thầy đã bị bắt, bị kết án, bị đóng đinh và nay Thầy đã sống lại trong quyền năng của Thiên Chúa. Con tin thật như thế.

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu phục sinh với thánh Toma, luôn là một đề tài nói về niềm tin của người tín hữu, hãy tin, đừng cứng lòng như Toma. Thực ra, người tín hữu hôm nay cần có một lời cám ơn trân trọng gởi tới cho thánh nhân, bởi thái độ của niềm tin ban đầu nơi ngài, đã góp thêm nhiều lời chứng về mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu. Để chấp nhận một sự thật xem ra không thể, con người khó có thể ngày một ngày hai là đón nhận, phải có một quá trình, phải có những lý chứng thật rõ ràng và xác đáng. Vì sao thánh Toma lại đòi kiểm chứng về lỗ đinh và vết thương của Thầy mình, vì sao thánh Toma lại yêu cầu được đụng chạm tới con người bằng xương bằng thịt của Thầy mình, bởi thánh nhân muốn xác nhận con người mà thánh nhân gọi là Đức Giêsu, đã chết vì một bản án bất công, đã được mai táng trong mồ đá, nay con người đó đã sống lại thật, còn nguyên những dấu đinh, những vết thương trên thân thể. Đó là một con người, một nhân vật chứ không là hai con người ở hai thời điểm khác nhau của không gian và thời gian.

Đức Giêsu Kitô đã chết nhưng nay Người đã sống lại trong vinh quang của Thiên Chúa, dù đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhưng Người vẫn chấp nhận ở lại với con người, với một thân thể đầy dấu tích của đau khổ, của sự chết. Chính những dấu tích của đau khổ, của sự chết đó, diễn tả chiều sâu của một tình yêu vô điều kiện đến từ Thiên Chúa, yêu và yêu đến cùng. Sự đồng hành của Con Thiên Chúa phục sinh giúp người tín hữu có một động lực mạnh mẽ, để chấp nhận những đau khổ, những bệnh tật và những thất bại trong cuộc sống, bởi bên cạnh họ, có một Đấng đã chấp nhận tất cả, kể cả cái chết, để yêu và để được yêu con người. Đó là lòng thương xót Thiên Chúa dành cho con người. Và hôm nay, người tín hữu được mời gọi tôn kính lòng thương xót của Con Thiên Chúa, bởi từ nơi thân thể với những vết thương của mầu nhiệm thập giá, Con Thiên Chúa đã đón lấy tất cả những tội lỗi của nhân loại, đã tha thứ tất cả và đưa con người đi tới một tình trạng mới đó là được gọi Thiên Chúa là Cha nhân lành, được làm nghĩa tử của Ngài đã được sống đời đời với Ngài.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, mầu nhiệm phục sinh của Chúa đã mở ra cho chúng con một tương lai mới, một niềm tin vững vàng hơn, nơi đó có những lời chứng thật rõ ràng và xác tín, xin giúp chúng con hôm nay, luôn vững niềm tin vào một Thiên Chúa tình yêu, một Thiên Chúa đã chấp nhận chết vì yêu chúng con. Chúa đã trải qua nhiều nỗi khổ đau trong cô đơn thất vọng, những cảm nghiệm đó Chúa chia sẻ với chúng con mỗi khi gặp khổ đau và thất vọng trong cuộc sống, xin giúp chúng con vững niềm tin hơn mỗi khi đối diện với những khó khăn và đau khổ, với bệnh tật và thất bại giữa cuộc đời. Amen.

NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN
(Chúa Nhật II Phục Sinh)
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Hằng năm, vào Chúa nhật II mùa Phục Sinh, chủ đề đức tin lại được nhấn mạnh, đặc biệt qua bài Tin Mừng thánh Gioan tường thuật về dữ kiện thường được gọi là “sự cứng lòng tin” của tông đồ Tôma. Một trong những điều kiện cần thiết để đạt đến sự sống đời đời đó là đức tin. Đức tin tiên vàn là hồng ân do Chúa ban tặng. Tuy nhiên phía con người cần thiết phải có sự đáp trả. Để đáp trả hay nói cách khác là để tiếp nhận hồng ân Chúa ban tặng dĩ nhiên cần có một vài cơ sở hay nền tảng nào đó. Xin được chia sẻ một vài nền tảng mà con người thường dựa vào đó để đón nhận hồng ân đức tin.

1. Một dấu hiệu đổi thay, mang tính tích cực nơi những người được gọi là có đức tin: Xin đừng tiên thiên trách cứ tông đồ Tôma vì không chịu tin lời chứng của anh em đồng môn rằng Chúa đã sống lại. Các cửa vẫn đóng kín, nghĩa là anh em vẫn còn sợ người DoThái (Ga 20, 19), thì lời chứng của anh em làm sao khả tín. Tin Mừng ghi rõ: một tuần sau khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các Ngài thì các cửa của căn nhà vẫn đóng im ỉm. Chẳng có gì đổi thay cách tích cực thì đừng mong thuyết phục được ai. Sách Công Vụ Tông đồ tường thuật rằng chính nhờ sự đổi thay trong cách sống của các Kitô hữu tiên khởi đã làm nhiều người mến phục và gia nhập cộng đoàn. Cũng là những con người bình thường, thế mà giờ đây họ lại sống quảng đại yêu thương cách chân thành: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu… Và Chúa cho cộng đoàn ngày mỗi có thêm những người được cứu độ” (Cvtđ 2, 44-46).

Quả thực, lịch sử minh chứng rằng ít thấy chuyện người ta gia nhập Hội Thánh, đón nhận đức tin vì “bị thua lý” mà thường là vì cảm mến một tấm lòng hay gương sáng của các Kitô hữu.

2. Tính duy lý được thoả mãn nhờ các kiểm chứng kiểu duy thực nghiệm: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Là “cây sậy biết suy tư” (Pascal), chúng ta cần nhìn nhận vai trò quan trọng của trí khôn, ngay cả trong việc tiếp nhận hồng ân đức tin. Nói đến đức tin là nói đến một sự quy thuận của lý trí trước một thực tại tuy rằng “siêu lý” tức là vượt quá tầm lý luận của trí khôn nhưng không “phi lý”. Vai trò của lý trí vẫn có đó trong các hành vi của đức tin.

Vấn đề đặt ra là dù được kiểm chứng hay kiểm nghiệm thì sự thoả mãn của trí khôn vẫn còn bị hạn chế, đặc biệt trong lãnh vực đức tin, một lãnh vực vượt quá tầm luận lý con người. Tạ ơn Chúa và cám ơn thánh Tông đồ Tôma. Khi Chúa Phục Sinh ngỏ lời với ngài trong lần hiện ra sau đó: “Đặt ngón tay con vào đây và nhìn xem tay Thầy…”, thì Tôma đã không thực hiện yêu cầu đặt ra trước đó với anh em. Đức tin không phải là kết quả của một quá trình cân, đong, đo, đếm. Đến đây chúng ta mới hiểu câu nói của Đấng Phục Sinh: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 28). Nếu chỉ đặt nền tảng trên luận lý thì quả là còn nhiều khó khăn phải vượt qua để đến với đức tin.

3. Cảm nhận mình được Chúa hiểu và Chúa thương yêu mình: đây chính là nền tảng vững vàng và căn bản để đón nhận hồng ân đức tin. Mình yêu sách, mình ra điều kiện trước anh em, thế mà Thầy chí thánh vẫn biết. Thầy biết mà Thầy không trách mắng, lại còn muốn cho mình được thoả mãn yêu sách. Tôma cảm nhận sự thông biết của Thầy và nhất là cảm nhận tấm lòng của Thầy. Chính vì thế ngài đã không thực hiện theo yêu sách đề ra mà đã vội vàng quỳ xuống và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

Một niềm tin dựa trên nền tảng là chính hiện sinh của bản thân mình thì vừa sâu đậm vừa vững bền. Cuộc đời của nhiều vị thánh như chị Têrêxa Hài đồng Giêsu hay như Mẹ Têrêxa thành Cancuttta minh chứng cho ta thấy điều này. Các Ngài không chỉ nhận ra các dấu hiệu đổi thay mang tính tích cực đó đây mà chính các Ngài đã góp phần dệt xây các dấu hiệu ấy cách hăng say và hữu hiệu. Các Ngài thường có trí khôn vững vàng với sự luận suy sắc bén. Thế nhưng các cơn cám dỗ về đức tin thường được gọi là đêm tối đức tin vẫn đến với các Ngài, có khi rất dữ dội và dai dẳng. Chính nhờ cảm nghiệm được Chúa hiểu, được Chúa yêu thương đã giúp các Ngài kiên trì vượt qua chước cám dỗ khủng hoảng đức tin.

Để có được chút cảm nghiệm này, chắc chắn không thể nào thiếu một đời sống cầu nguyện trong chuyên chăm trong sâu lắng. Chính trong sự sâu lắng và chuyên chăm kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có thể nhận ra Đấng Hằng Sống, Đấng là Tình Yêu “đang ở trong ta hơn là ta ở trong ta” (Âugustinô). Và thiết nghĩ rằng đây chính là một trong những nền tảng vững chắc để suy phục, tôn thờ Đấng giàu lòng thương xót.

LÒNG THƯƠNG XÓT
Chúa Nhật 2 Phục Sinh: Ga 20, 19-31 - Lm. Thái Nguyên

LmTN 130423a


Suy niệm

Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng sự chết của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các tông đồ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng trọng đại: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách, nên ông thẳng thừng từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình. Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Con người Tôma có cái gì bất thường, lập dị, nhưng may là ông trở về với cộng đoàn, nên chứng kiến việc Chúa phục sinh.   

Khi hiện ra, Đức Giêsu nói với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây… Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Tôma kinh hoàng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa phục sinh không phải là vinh quang chói lọi hay điều gì kinh khủng, mà là chính dấu đinh. Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang hay quyền lực của mình để khuất phục thế gian, mà chỉ dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn Ngài. Đức Giêsu thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” nghĩa là khi Ngài bị hành hình, bị sỉ nhục; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá và sống lại vì chúng ta, để ta cùng được sống lại với Ngài.

Thánh giá Chúa mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ mong cho mình được vinh hoa phú quí hay quyền cao chức trọng, vì như vậy chúng ta muốn sống khác biệt với Chúa. Lối sống đó đối nghịch với thập giá Chúa và không đạt tới sự phục sinh với Ngài. Lối sống đó đào hố sâu ngăn cách giữa người với người, không thể hiện được tình yêu mà chỉ là sự ích kỷ, làm điên đảo và tổn thương đời sống con người.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người, chứ không ai khác. Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.

Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó… 

Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của con người, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa trong đời sống. Thương xót là muốn nâng nhau lên một cuộc sống tốt lành hơn, chân thật hơn, thiện hảo hơn, theo đường nẻo của Thiên Chúa.

Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chứng tích tình yêu của bạn đi! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.

Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra mình là người được Chúa thương xót, để suốt cuộc đời ta là trở nên lòng thương xót của Chúa cho mọi anh chị em, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”. 

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Thương xót là hành động của Cha,
là tiêu chuẩn để biết ai con cái,
là sống với tất cả lòng nhân ái,
nhưng bao hàm công bằng và sự thật.


Thương xót không dung túng điều xấu xa,
nhưng đòi con phải kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.


Thương xót là hành động cao quí nhất,
đó chính là phẩm chất của con người,
là hành vi thờ phượng rất đẹp tươi,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà trước tiên là sống với lòng nhân,
để trở nên ánh sáng giữa cuộc trần.


Đức Giê-su đã trở nên người thế,
để thể hiện lòng thương xót của Cha,
trên thập giá Ngài cũng đã thứ tha,
trước lòng dạ bạc ác của con người,
ngay cả ông Tô-ma cứng lòng tin,
Ngài cũng đã hạ mình cho xem thấy.


Chúa muốn con nên hoàn thiện như Cha,
không phải là không còn gì thiếu sót,
mà là sống nhân từ và tha thứ,
không xét đoán và càng không lên án,
luôn bao dung và đại lượng vô vàn,
vì thương xót là tình yêu vô giới hạn.


Xin cho con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy phát sinh con người mới,
để tình Chúa sáng tỏa khắp muôn nơi,
là niềm vui ơn cứu độ cho đời. Amen.

 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...