Chúa Nhật XXVI Thường Niên – Năm C

“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”. (Lc 16, 19-31)

Chúa Nhật XXVI Thường Niên – Năm C

Lc 16, 19-31


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật XXVI Thường Niên – Năm C

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã tác tạo mọi sự cho chúng tôi hưởng dùng, Chúa đã xét xử công bình. Vì chúng tôi đã phạm tội và không tuân giữ các giới răn Chúa; nhưng xin Chúa hãy ban cho danh Chúa được vinh hiển, và xin hãy đối xử với chúng tôi theo lượng từ bi của Chúa.

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến! Phúc hay họa không phải bởi của cải, nhưng chính là bởi người sở hữu của cải, bởi cách sống và cách sử dụng của cải đó: có biết chia sẻ và phân phối của cải ấy cách công bằng và bác ái không?

Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau. Nhà phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giầu có, nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.

Nhìn vào gương người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay và người ăn xin ngồi chờ những mẩu bánh vụn từ bàn ăn của người phú hộ rơi xuống, chúng ta hãy tưởng tượng còn biết bao Lazarô trên thế giới cũng đang chờ đợi sự hảo tâm và chia sẻ của mỗi người chúng ta, là những người may mắn hơn họ. Người tín hữu đúng nghĩa là người luôn biết chia sẻ hơn là chiếm hữu cho bản thân. Chúng ta hãy thành tâm thống hối về những việc làm lãng phí, vô ích; và những tính toán hẹp hòi, ích kỷ đối với những người nghèo khổ đang cần đến lòng tương trợ và yêu thương của chúng ta.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin….

Bài Ðọc I: Am 6, 1a. 4-7

“Các ngươi đã mê đắm và ca hát, giờ đây các ngươi bị lưu đày.

Trích sách Tiên tri Amos.

Ðây Chúa toàn năng phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, và tự kiêu trên núi Samaria. Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn; và ca hát theo tiếng đàn cầm thụ; người ta nghĩ mình như Ðavit, có những nhạc khí, dùng chén lớn uống rượu, lấy dầu hảo hạng xức lên mình, và chẳng thương hại gì đến nỗi băn khoăn của Giuse; vì thế, giờ đây họ phải lưu đày và đi đầu các kẻ lưu đày; những buổi yến tiệc của các kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Xướng: Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. 

Xướng: Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục; Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. 

Xướng: Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. 

Bài Ðọc II: 1 Tm 6, 11-16

“Con hãy gìn giữ huấn lệnh cho tới ngày Chúa lại đến”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng. Cha chỉ thị cho con trước mặt Thiên Chúa, Ðấng làm cho muôn vật được sống, và trước mặt Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã làm trước mặt Phongxiô Philatô, lời tuyên xưng thẳng thắn, con hãy giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách được, cho tới ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà đến thời đã định, Ðấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra, Người là Thiên Chúa, Vua các vua và Chúa các chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng siêu phàm, không một ai trong loài người đã xem thấy hay có thể xem thấy: (kính chúc) vinh dự và quyền năng cho Người muôn đời. Amen!

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang nghe, Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 16, 19-31

“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:

‘Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này’. Abraham nói lại: ‘Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được’.

Người đó lại nói: ‘Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này’. Abraham đáp rằng: ‘Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài’. Người đó thưa: ‘Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải’. Nhưng Abraham bảo người ấy: ‘Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu'”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Nghèo khổ chưa hẳn là một cái tội, nhưng giàu sang có thể là mối nguy, cả đời này lẫn đời sau. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người trên thế giới biết sống với nhau trong tinh thần chia sẻ, tương trợ và yêu thương.

1. “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quí ở Sion và tự kiêu trên núi Samaria” – Xin cho người giầu có và nhiều tài sản, biết nghe lời cảnh cáo của tiên tri Amos, mà từ bỏ con đường sa đọa dâm đãng, để chia sẻ cho những người đồng loại nghèo khó, nợ nần và túng thiếu.

2. “Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin” – Xin cho mọi người tông đồ giáo dân thể hiện đức tin qua tinh thần siêu thoát đối với vật chất, và yêu thương giúp đỡ những người bần cùng.

3. “Có một nhà phú hộ kia…ngày ngày yến tiệc linh đình” – Xin cho mỗi người chúng ta đừng bao giờ làm ngơ trước những nỗi khó khăn và khốn khổ của những người xung quanh, nhưng luôn luôn sẵn sàng ra tay trợ giúp, để đời sau chúng ta xứng đáng hưởng lòng Chúa nhân từ, xót thương.

4. “Người hành khất…ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống” – Xin cho các gia đình trong giáo xứ biết sống tiết kiệm, để đóng góp và chia sẻ với những anh chị em nghèo, thiếu thốn, hầu góp phần xây dựng một giáo xứ đầy tình yêu thương, hiệp nhất và thịnh đạt.

Chủ tế: Lạy Chúa là Cha toàn năng, nhân ái, Chúa mời gọi chúng con góp phần vào công cuộc hoàn thiện thế giới. Xin cho giới răn yêu thương của Chúa luôn sáng ngời qua những việc làm tốt đẹp và nhân ái của chúng con để thế giới dồi dào sự hiệp nhất, chứa chan lòng quảng đại và tràn ngập tình yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, chúng con dâng những lễ vật này, xin Chúa vui lòng chấp nhận, và mở cho chúng con nguồn mạch mọi ơn phúc. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Lạy Chúa, đối với tôi tớ Chúa, xin nhớ lại lời Chúa, vì Chúa đã cho tôi hy vọng vào lời Chúa, đó là điều an ủi tôi trong lúc tôi khốn khổ.

Hoặc đọc:

Do điều này mà chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa, là chính Người đã thí mạng sống mình vì chúng ta, nên chúng ta cũng phải thí mạng sống mình vì anh em.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, trong thánh lễ này, chúng con đã chung phần đau khổ với Ðức Kitô Con Một Chúa; xin Chúa thương đổi mới xác hồn chúng con, để chúng con được hưởng vinh quang với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Suy niệm

Tiền

Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một định nghĩa về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên đàng là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là không thể được.

Thật là một câu định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên, hay biết mà giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới. Nó cũng giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại khó được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.

Từ câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Ladarô không phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã không oán trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.

Và như thế tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và đường lối của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa. Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên cần thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là luôn ý thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải mở rộng cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được cứu rỗi.

Và trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được cứu độ vì đã biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm, quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ không có một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.

Tiền bạc

Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?

Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.

Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.

Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:

Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.

Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu…

Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.

CHÚA NHẬT 26C THƯỜNG NIÊN
(Lc.
16:19-31) 98 - Lm. Lã Mộng Thường

Vào năm 1987, khi còn đang trong chương trình giúp xứ tại nhà thờ St. Michael, tôi ghé vô nhà ông bà cụ già ăn trưa. Bà cụ nói rằng tôi giảng khá hay trong thánh lễ sáng hôm đó. Thế rồi tôi tinh nghịch hỏi lại, “Bà bảo hay như thế nào?” Bà trả lời, “Con chỉ biết nó hay nhưng không còn nhớ thày nói gì?”

Kinh nghiệm sống chứng minh, chúng ta thích nhiều thứ nhưng chúng ta không cảm thấy cần thiết những điều ấy, vật ấy. Chúng ta biết nhiều tư tưởng vĩ đại, hoặc có thể nghĩ tới lắm chuyện tốt lành, hay được nghe và ca tụng những lời dạy khôn ngoan nhưng chúng ta không cảm thấy đó là những điều cần thiết trong cuộc đời. Thử dừng đôi phút nhớ lại, đã bao nhiêu lần chúng ta cố tâm quyết định thực hiện những chuyện này, đức tính kia và đã không bao giờ hoàn thành vì kết quả của những điều dốc lòng ấy không xảy ra ngay tức khắc. Lý do tạo nên những thái độ này trong cuộc đời một người đó là chúng ta có quá nhiều sự cần thiết hơn phải giải quyết cho xong. Và như vậy, cuộc đời con người hình như bị chìm đắm nơi những thói quen sống, truyền thống để toa rập theo, hoặc những đòi hỏi nơi cuộc đời khiến chúng ta cảm thấy quá mệt mỏi vì phải đối diện với muôn thứ cần thiết hay bất trắc xảy đến nên bắt con người toa rập theo không còn giờ suy nghĩ nhiều khi đến nỗi không biết mình sống để làm gì. Chúng ta cũng không biết ngay cả mình thực sự như thế nào, là ai và chết rồi sẽ đi về đâu để rồi nếu có ai hỏi đến thì theo thói quen đã được học nơi giáo lý trả lời rằng kẻ lành lên thiên đàng và kẻ dữ sa hỏa ngục.

Câu chuyện Phúc Âm hôm nay nói lên thực trạng nơi mỗi người và đó là, “Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”. Tôi không nghĩ rằng người phú hộ bị khốn khổ nơi hỏa ngục vì ông ta có cuộc sống giàu có. Phúc Âm không nói thế. Và tôi cũng không nghĩ rằng Lazarô được thưởng bởi đã lỡ được sinh ra nơi số kiếp chẳng may. Kinh nghiệm sống chứng minh, chỉ những người được sinh ra để giầu có mới có thể giầu có. Do đó, đã biết bao người tần tiện, ăn chắt để dành nhưng số khó làm chẳng nên giầu, bởi vậy dù cố gắng làm lụng vất vả mà cuộc đời khốn khó vẫn hằng giờ đeo đuổi.

Nếu để tâm suy nghiệm về đời sống chúng ta sẽ nhận thấy bất cứ chuyện gì, điều kiện nào, may mắn hay rủi ro, sung sướng hoặc thất bại, mọi sự đều là cơ hội cho chúng ta thăng tiến tâm linh dẫu chúng ta nhận biết hay không. Tuy nhiên, nếu tâm tư chúng ta đã tràn đầy những sự cả sáng hay lo âu thế tục như chiếc ly chứa quá đầy nước, chúng ta tất nhiên sẽ không muốn suy nghĩ về giá trị cuộc sống cũng như ý nghĩa cuộc đời chúng ta được sinh ra để làm gì. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta hãy nhìn lại chính mình. Phỏng chúng ta đã bao giờ tự suy tư về Phúc Âm để tìm ra ý hướng nên theo, những điều cần thiết, những khát vọng tâm linh ẩn tàng tận đáy cõi lòng chúng ta, hay chúng ta chỉ lấy lời dạy này, nhắc lại những điểm cao vời kia của người khác và cho rằng thế là đã quá đủ vì tưởng mình biết hoặc nhắc lại được như vậy thì không còn gì phải bận lòng suy tư. Một tổ thiền nhắc lại một công án cho người tu tập suy nghĩ, "Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng”. Người tập tu suy mãi không ra nên đã nhiều lần xin thày giảng giải. Cuối cùng tổ thiền nói, “Nếu tôi giải thích cho anh bây giờ, sau này anh sẽ mắng tôi mà thôi vì sự hiểu biết của tôi không phải là của anh nên nó sẽ không đem lại ích lợi gì nhưng thực ra có thể chỉ làm hại anh mà chớ”.

Đã có nhiều người vì ngại ngùng hoặc bởi đã bị tiêm nhiễm thói quen thu thập những kiến thức để lấp đầy khoảng trống khát vọng tìm biết Chúa nơi mình, hoặc quá e sợ sai lầm hay không dám đối diện với con đường hẹp suy tư nên đã ỷ lại chờ người khác dẫn dắt hầu đạt tới Tin Mừng Nước Trời. Họ quên nghiệm chứng chính cuộc đời họ. Kinh nghiệm sống minh chứng, sự hiểu biết kiến thức và sự thực hành thăng tiến tâm linh là hai trạng thái hoàn toàn khác biệt dẫu kiến thức phần nào đóng góp nơi sự suy tưởng, nghiệm chứng. Trước hết, sợ sai lầm chính là tội lỗi lớn lao hơn tất cả mọi thứ tội lỗi vì đã cầm buộc tâm trí con người nơi trạng thái tối tăm, ngăn cản thăng tiến, phát triển.

Có câu nói, người nào không bao giờ vấp phạm nơi những lời nói, không bao giờ làm điều gì sai lầm, chính là người ngu nhất. Người mà không biết gì để nói nên không nói thì sao vấp phạm; không làm gì hoặc không biết gì có thể làm để mưu sinh sao bị sai lầm. Họ là thứ ăn bám, lạm dụng để sống dựa trên những sai lầm của người khác. Thứ đến, kiến thức thế tục, bằng nọ, cấp kia chỉ là lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài giúp con người có cuộc sống dễ thở hơn. Có kiến thức nhưng không biết xử dụng để áp dụng nơi cuộc sống thì cũng chỉ như kẻ ôm túi vàng trên biển khi vượt biên, chịu cảnh đói khát dù được gọi là giàu có. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình, đó là nếu nói về lý thuyết đánh tôm bắt cá thì ai cũng có thể nói được nhưng lái con tàu sao cho bắt được nhiều tôm cá thì những lý thuyết có thể chỉ làm chìm ghe, hoặc nhà băng kéo tàu.

Nơi hành trình suy nghiệm Lời Chúa cũng thế. Chúng ta cần tự suy tư, không nên dựa nơi những lý thuyết hoặc kiến thức của bất cứ ai vì đó là kết quả sự suy tư của họ, không đem lại lợi ích gì cho mình. Chúng ta tin rằng thân xác, cuộc đời mỗi người là đền thờ của Thánh Thần Thiên Chúa. Thánh Thần làm việc qua tâm trí mỗi người. Chúng ta cần xử dụng khả năng suy tư, hồng ân đã được ban cho và cũng là phương tiện để Thánh Thần làm việc hầu hướng dẫn mỗi người nơi hành trình đức tin.

Tóm lại, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta nên để tâm suy nghiệm những lời dạy dỗ khôn ngoan của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Và phương pháp hữu hiệu nhất để tránh sai lầm khi đối diện với những chủ thuyết hoặc những lời giải thích của các tiên tri giả chính là sự suy tư, nghiệm chứng và mở rộng lòng để Thánh Thần dẫn dắt nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Amen. 

Chúa nhật tuần lễ 26 thường niên C
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 16, 19-31).

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: ‘Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này’. Abraham nói lại: ‘Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được’. Người đó lại nói: ‘Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này’. Abraham đáp rằng: ‘Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài’. Người đó thưa: ‘Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải’. Nhưng Abraham bảo người ấy: ‘Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu’”.

Suy niệm

Khi chủ nghĩa hưởng thụ được quan tâm và đang thu hút nhiều người đi vào quỹ đạo của nó, con người phần nào đang đánh mất dần định hướng tương lai của bản thân về vấn đề sử dụng tiền bạc, của cải, đồng thời, lối sống thực dụng cũng tác động không ít vào lối sống hưởng thụ đó, tạo cho con người một góc nhìn mới về tương quan cộng đồng, đặc biệt là với những người nghèo, những người đang thiếu thốn cái ăn, cái mặc và một mái ấm che nắng mưa giữa cuộc đời. Lời Chúa trong những tuần lễ gần đây, đang gợi lại những bài giáo huấn của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, những dụ ngôn của Đức Giêsu trong sứ mạng của Ngài, tất cả hướng về một mục đích là việc sử dụng vật chất, tiền của sao cho thích hợp và xứng đáng trong việc tôn trọng tình người.

Bất cứ thời đại nào, bất cứ dân tộc nào cũng có những bất công, những chênh lệch trong cuộc sống, giữa người này với người kia, giữa gia đình này với gia đình nọ, Thánh kinh luôn dẫn lời dạy của Thiên Chúa dành cho con người, hãy biết sống và sử dụng những phương tiện, những nhu cầu tiện ích sao cho công bằng, sao cho hợp lý và thắm đậm tình người. Vậy mà, ngay từ thời xa xưa, và mãi đến thời các tiên tri cũng không tránh khỏi những bất cập này, người giàu, vì sự sang giàu về vật chất, đã coi thường, đã khinh miệt người nghèo, trái lại, người nghèo luôn mong mỏi được tôn trọng, dù chỉ bằng với những con vật nuôi trong nhà. Bài đọc 1 trích từ sách tiên tri Amos, đã vẽ lại bức tranh tương phản đó, đang tồn tại giữa cộng đoàn dân riêng của Thiên Chúa: “Ðây Chúa toàn năng phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, và tự kiêu trên núi Samaria. Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn; và ca hát theo tiếng đàn cầm thụ; người ta nghĩ mình như Ðavit, có những nhạc khí, dùng chén lớn uống rượu, lấy dầu hảo hạng xức lên mình, và chẳng thương hại gì đến nỗi băn khoăn của Giuse; vì thế, giờ đây họ phải lưu đày và đi đầu các kẻ lưu đày; những buổi yến tiệc của các kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa”. Vòng tay Thiên Chúa cũng như ngôi nhà của Ngài, luôn có chỗ đứng của tất cả mọi người, chỉ có con người loại trừ nhau, chỉ có con người phân chia tha nhân ra nhiều thái cực, để rồi chính những người giàu, tự mình đánh mất chỗ đứng trong vòng tay và ngôi nhà của Thiên Chúa.

Trước một xã hội nhiễu nhương, những giá trị tinh thần bị đảo lộn, giá trị con người bị đánh giá thấp hơn những giá trị vật chất, thánh Phaolô đã nhắc nhở người học trò của mình, trước hết là hãy ý thức mình là người của Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa, vì thế, cần phải đặt những giá trị tinh thần trên tất cả những giá trị thuộc về thế gian. Lời nhắc đó được Mẹ Giáo hội nhắc lại trong bài đọc 2 hôm nay, và cũng là lời mời của Mẹ Giáo hội gởi về cho con cái đang sống trong một xã hội thiên về vật chất và hưởng thụ: “Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng”. Để có thể vượt qua những cám dỗ, những lời mời gọi đường mật của vật chất, con người cần đối diện với một chọn lựa, một bên là hưởng thụ phút giây hiện tại, một bên là hạnh phúc trong tương lai và ngày sau hết. Nếu biết can đảm vượt qua những thách đố lớn đó, người môn đệ của Thiên Chúa sẽ được trọng thưởng trong ngày sau hết của cuộc đời.

Hình ảnh người giàu, người nghèo trong bài Tin Mừng tuần lễ này, cũng đang tồn tại trong xã hội hôm nay, và có thể nói là rất nhiều, bởi con người tự mình đặt ra những giá trị cho các phương tiện, cho những đồ vật và những nhu cầu cuộc sống, cao hơn giá trị của một con người, do đó, sự chênh lệch giàu nghèo, thái độ dửng dưng người giàu dành cho người nghèo ngày càng rõ nét và khắc đậm trong suy nghĩ của con người. Người giàu có và anh chàng Lazaro trong câu chuyện sau, đại diện cho hai giai tầng trong xã hội: người giàu và người nghèo: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho”. Khi còn sống, khoảng cách về địa lý giữa hai người rất gần, có thể nói là bên cạnh nhau, nhưng thái độ dửng dưng và chênh lệch về giá trị vật chất, đã ngăn cách hai người đến với nhau trong sự trân trọng và ấm áp tình người. Người nghèo chỉ ao ước được ăn những mảnh vụn rơi xuống từ bàn ăn của người giàu, giá trị của người nghèo chưa bằng giá trị của một con chó trong gia đình người giàu. Dù biết khoảng cách giàu nghèo giữa gia đình mình với người nghèo là vậy, nhưng ông nhà giàu vẫn dửng dưng, vẫn vô cảm, để rồi sau đó, ông hối hận không kịp cho phần phúc cuộc đời.

Thiên Chúa không dạy con người chỉ làm việc đủ sống, đủ ăn, nhưng Ngài còn động viên họ hãy ra công làm việc, có của cải thật nhiều, rồi hãy dùng nó như một phương tiện để kết nối tình huynh đệ cộng đoàn bằng việc chia sẻ, giúp đỡ và đồng hành với tha nhân. Của cải trong tay của người giàu đến từ lao động và công sức của họ, không ai phủ nhận, nhưng nếu họ biết dùng của cải đó đúng với tinh thần của Tin Mừng, đúng với giá trị của chúng là phương tiện, ắt họ sẽ dùng vào việc phúc đức, dùng vào việc chia sẻ và giúp đỡ những người khó khăn và thiếu thốn, những người đang gặp hoạn nạn do bệnh tật, thiên tai và tuổi già. Câu chuyện người giàu sống bên cạnh kẻ nghèo trên, hướng con người đến chỗ biết nhận định những giá trị trong cuộc sống hiện tại. Đâu là giá trị tinh thần có thể đem lại cho bản thân lợi ích mai sau, đâu là giá trị tinh thần đem lại lợi ích hiện tại cho cá nhân, cho gia đình với những hình thức bên ngoài như khen thưởng, như tính công phúc trước mặt người đời. Con người còn được mời gọi biện phân những giá trị cao hơn, đó là giá trị của con người, một tạo vật manh họa ảnh Thiên Chúa và hơi thở của Ngài, ắt sẽ cao hơn giá trị của một con vật vô tri giác, của một đồ vật hạ đẳng giữa thế giới này.

Khi con người biết nhận định, biết biện phân, biết chọn lựa và biết sử dụng của cải, vật chất như Thiên Chúa hướng dẫn, ắt họ sẽ thấy bình an trong tâm hồn, sẽ thấy hạnh phúc khi được chia sẻ với tha nhân đang gặp khó khăn, sẽ thấy ấm áp tình huynh đệ cộng đoàn với mọi người gần xa, dù sự chia sẻ đó chỉ là một tấm chăn, một chiếc áo ấm áp mùa đông, một vài ký gạo cho những gia đình đang gặp thiên tai, hạn hán. Chia sẻ khó khăn với những người thiếu thốn không bao giờ là công việc có hồi kết, nhưng luôn có và luôn đón mời, nếu giữ được ngọn lửa tin mừng trong mọi hành vi sống đạo, người tín hữu Kito luôn thao thức được thực hiện công việc thiện nguyện đó, dù đó chỉ là một con người bình thường, một gia đình chỉ đủ ăn đủ mặc và đủ sống mà thôi. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo hôm nay rất gần, rất sát bên cạnh, nhưng trong ngày sau hết, khoảng cách đó rất xa và xa vời vợi, như một vực thẳm, đến nỗi bên này muốn sang bên kia không được, ai có thể giúp người giàu có được hạnh phúc mai sau, nếu không phải là người nghèo, ai sẽ giúp người giàu được vào ngôi nhà hạnh phúc trên trời, nếu không phải là những người sống bên cạnh mình, đang thiếu thốn, đang đau khổ và đang bất hạnh giữa dòng đời. Thiên Chúa chỉ gợi nhắc bởi Ngài luôn tôn trọng sự tự do của con người. Hãy biết chọn lựa và hành động, kẻo không còn cơ hội vàng như thế nữa, để mai sau tất cả cùng chung bàn tiệc trên Nước Trời.


Lạy Chúa Giêsu, để lời dạy của Chúa trở nên mạnh mẽ và là động lực cho con người, Chúa đã đến và ở với người nghèo, xin dạy chúng con biết bắt chước thái độ sống khiêm tốn, biết cúi xuống trong tình hiệp thông, để chia sẻ, để cảm thông và để đồng hành với tha nhân. Chúa nhập thể và muốn cứu độ mọi người, xin nhắc chúng con luôn ý thức rằng mọi người đều là con cái Thiên Chúa, đều được hưởng ơn cứu độ của Ngài, đều được thừa kế gia sản lớn lao là Nước Trời, để chúng con biết trân trọng nhau, biết đón nhận nhau và biết giúp đỡ nhau trong từng ngày sống chúng con. Amen.

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN C

Am 6, 1a.4-7; 1 Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31

LM ĐAN VINH – HHTM

 

QUAN TÂM PHỤC VỤ NGƯỜI BẤT HẠNH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 16, 19-31

(19) Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. (20) Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, (21) thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. (22) Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết và người ta đem chôn. (23) Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. (24) Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham. Xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát. Vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm”. (25) Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: Suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi. Còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. (26) Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được. Mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”. (27) Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con. (28) Vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh báo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này. (29) Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. (30) Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu. Nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. (31) Ông Áp-ra-ham đáp: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà họ chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”.

2. Ý CHÍNH:

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về một ông nhà giàu và người hành khất La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu thì ăn mặc sung sướng đang khi La-da-rô có cuộc sống rất tồi tệ. Nhưng sau khi cả hai đều chết đã được Thiên Chúa xét xử công bình: La-da-rô thì được an ủi ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, đang khi ông nhà giàu phải chịu đau khổ cùng cực trong hỏa ngục.

3. CHÚ THÍCH:

- C 19-21: + Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình: Dụ ngôn này lấy từ hình ảnh quen thuộc trong xã hội Do thái có những người giàu sống tách biệt với người nghèo. + Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô: Đối nghịch với hình ảnh người nhà giàu kia là hình ảnh La-da-rô nghèo khó khốn khổ. Anh này làm nghề hành khất, người đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. La-da-rô hay Ê-lê-a-da-rô nghĩa là “Thiên Chúa giúp”, ý nói anh ta chỉ còn biết trông chờ một mình Thiên Chúa giúp đỡ mà thôi. + Mụn nhọt đầy mình... Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta: trong Kinh thánh, chó bị coi là con vật ghê tởm và dữ tợn (x. Tv 22,17.21; Mt 7,6). Kiểu diễn tả “ước được những mụn bánh” và “chó đến liếm ghẻ chốc” nhằm làm nổi bật cảnh khốn cùng của La-da-rô và sự thờ ơ ích kỷ của ông nhà giàu.

- C 21-24: + Dưới âm phủ: Theo quan niệm của một số giáo phái Do thái: Người chết bị vào trong âm phủ và tạm thời được xếp thành 2 loại: Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. + Thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ:  “Ngồi trong lòng tổ phụ” là một chỗ vinh dự trong bữa tiệc do tổ phụ Áp-ra-ham chủ tọa. Sau này trong bữa tiệc ly, Gio-an cũng được vinh dự “tựa đầu vào lòng Đức Giê-su” (Ga 13,23). + “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”...: Cuộc đối thoại giữa người giàu có với tổ phụ Áp-ra-ham cho thấy số phận của con người ở thế giới bên kia tùy thuộc vào cuộc sống của họ khi còn ở trần gian.

- C 25-26: + “Bây giờ La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”: Người giàu có bị trừng phạt vì khi còn sống đã không sử dụng của cải theo thánh ý Chúa. Còn người nghèo khó được thưởng vì đã chấp nhận sống tinh thần nghèo khó. Cái chết sẽ làm đảo ngược vị trí của người giàu và kẻ nghèo. Chỉ nhờ ơn Chúa thì những người giàu có mới có thể được cứu độ (X. Lc 18,24-27). Nhưng không phải bất cứ người nghèo nào cũng đương nhiên được hưởng lòng Chúa thương xót. Nếu nghèo mà không có tinh thần siêu thoát đối với tiền bạc của cải, thì số phận của họ cũng sẽ bị diệt vong (x. Lc 12,15 ; Mt 19,29). + “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn”...: Vực thẳm lớn không thể vượt qua, biểu tượng cho tính dứt khoát của số phận của những người được hưởng hạnh phúc hay sẽ phải chịu đau khổ trong thế giới kẻ chết.

- C 27-31: + “Vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con”: Ông nhà giàu muốn dùng kinh nghiệm bản thân của mình để cảnh báo những anh chị em đang sống chung dưới cùng một mái nhà của cha ông. + “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ”...: Sự cảnh báo về việc sử dụng của cải đã hàm chứa trong Luật pháp Mô-sê và Lời Chúa do các ngôn sứ tuyên sấm, đủ thuyết phục họ sửa đổi thói ích kỷ và biết quảng đại nhường cơm sẻ áo cho những người nghèo đói khác. Vì thế nếu những người giàu có đã không hồi tâm sám hối, không phải vì họ đã không có đủ các phương thế giúp ăn năn hối cải, nhưng chỉ vì họ đã cố tình từ chối thi hành các phương thế ấy mà thôi. + “Nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”: Ở đây ông nhà giàu muốn dùng việc kẻ chết hiện hồn về để đánh động lòng sám hối của các người anh em còn sống. + “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”: Câu này là cốt tủy của dụ ngôn. Dù lời dạy của Mô-sê và lời các ngôn sứ không phải là những phép lạ và chỉ nhằm để thúc đẩy người ta tin, nhưng đó cũng chính là Lời Chúa phán trong Thánh kinh (x. Lc 24,27.44). Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng nói đến sự vô hiệu của các phép lạ (x. Lc 10,13). Người cũng khẳng định các dấu chỉ thiêng liêng có giá trị hơn các phép lạ bên ngòai, khi nói: “Anh em hãy tin vào Thầy” (Ga 14,11.12) và: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29b).

4. CÂU HỎI: 1) Câu nào diễn tả cảnh khốn cùng của người nghèo khó La-da-rô? 2) Bài Tin mừng hôm nay dựa theo quan niệm của Do thái giáo: chia người chết thành hai lọai người nào? 3) Phải chăng người giàu có ở đời này sẽ đương nhiên chịu hình phạt ở đời sau và người nghèo khó ở đời này đương nhiên sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau? 4) Câu nào cho thấy tổ phụ Áp-ra-ham không cho phép La-da-rô hiện hồn về để nhắc bảo các anh em của ông nhà giàu? Tại sao?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16, 19-20).

2. CÂU CHUYỆN:

1) PHIM "NHỮNG ĐỨA TRẺ KHỐN KHỔ":

Một cô gái quê lên tỉnh đi tìm việc làm và đã bị kẻ gian lừa đến chỗ đã mang thai ngoài ý muốn. Sau đó do không thể vừa đi làm vừa nuôi con thơ, cô đành gởi con cho một chủ quán nhà trọ nuôi giúp. Người chủ quán này là kẻ vô lương tâm, đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của bà mẹ trẻ để ra sức bòn rút bóc lột: nay hắn đòi phải đưa thêm tiền sữa tăng giá, mai lại đòi tiền thuốc chữa bệnh cho đứa con. Bà mẹ trẻ chỉ còn biết nhịn ăn nhịn tiêu để chi trả những số tiền vượt kế hoạch. Khi không còn gì để trả, chị ta đành phải cắt mái tóc óng mượt đẹp đẽ của mình mang đi bán. Rồi sau đó lại phải nhổ từng cái răng để bán tiếp… và chỉ một thời gian ngắn sau đó chị biến thành một phụ nữ  ốm đói quần áo lôi thôi rách rưới, mặt mũi xấu xí và bị mọi người khinh dể xa lánh như một mụ điên. Sau đó chị bị viên quản đốc thẳng tay đuổi ra khỏi chỗ làm giữa một buổi sáng mùa đông giá lạnh, phải co ro trong chiếc áo rách, vừa đi vừa ôm ngục ho sù sụ… Lần khác chị bị một đám đông hè nhau xô té xuống lề đường và thay nhau hò hét đấm đá... Khi xem phim, có lẽ nhờ đã hiểu biết về hoàn cảnh cùng cực của bà mẹ trẻ khiến nhiều ngừoi chúng ta cảm thương, đang khi do thiếu hiểu biết mà nhiều kẻ đã đang tâm hành hạ chị không chút thương tiếc.

Còn chúng ta thì sao? Có khi nào chúng ta đã làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân, thậm chí còn vào hùa với kẻ gian ác để chế diễu hay hành hạ những kẻ điên loạn nghèo đói gặp phải giữa đời thường hay không?

2) CHO THÌ CÓ PHÚC HƠN LÀ NHẬN:

Ngày nọ, một cậu bé dòng dõi quí tộc đang đi chung với một người giám hộ dọc theo bờ ruộng của gia đình, trong thửa ruộng đó, có một bác nông dân đang làm việc cày bừa cho nhà cậu. Bác tá điền đã để đôi giày ủng trên bờ ruộng. Cậu bé tinh nghịch muốn giấu đôi giày ủng ấy để trêu chọc người nông dân. Bấy giờ người giám hộ đã khuyên bảo cậu bé rằng: "Con đừng làm cho người tá điền nghèo khổ kia buồn phiền, nhưng hãy làm cho ông ta vui mừng thì tốt hơn. Thầy khuyên con thay vì giấu giày đi thì con hãy bỏ tiền vào trong mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ đến núp trong đám bụi cây đằng kia để xem phản ứng của người nông dân thế nào?" Cậu bé liền làm theo lời thầy dạy. Chờ tới lúc người nông dân quay lưng đi chỗ khác, cậu đã lén đến gần đôi ủng và bỏ vào trong mỗi chiếc một quan tiền.

Một lát sau, khi đến giờ nghỉ trưa, người nông dân đến gần đôi giày và xỏ chân vào giày, ông ta vui mừng khi khám phá ra có hai quan tiền trong đôi giày ủng của ông. Ông ta đã qùy gối ngước mắt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã thương cứu giúp gia đình ông qua cơn túng cực vợ đang đau nặng phải nằm liệt giường. Ông cũng cầu Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh đã cho tiền. 

Chứng kiến niềm vui và nghe được những lời cầu nguyện của người nông dân, cậu bé cảm động muốn khóc. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu cảm thấy hạnh phúc khi làm cho người khác được vui theo lời Chúa dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).

3) ƯỚC GÌ TÔI LÀ MỘT NGƯỜI BẠN NHƯ THẾ:

Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào bên lề đường để đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt thán phục và thèm muốn.

- Thưa ông, đây có phải là chiếc xe của ông không? - Cậu bé hỏi.

- Phải.- Ông đáp.

- Nó đẹp quá. Ông mua chiếc xe này hết bao nhiêu tiền?

- Nói thật với chú bé là tôi không biết. Đây là một món quà mà bạn tôi đã tặng cho tôi.

- Như vậy chiếc xe là do bạn ông tặng và ông không phải bỏ ra đồng nào để mua?

- Đúng thế!  

- Ước gì tôi…

Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp “Ước gì tôi có một người bạn có lòng quảng đại như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Ước gì tôi là một người bạn có lòng quảng đại như thế”.

Và ông ta kết luận: “Tôi là người mặc áo quần bảnh bao và đang là sở hữu một chiếc xe hơi đời mới rất mắc tiền. Còn cậu bé kia ăn mặc rách rưới và thuộc tầng lớp nghèo đói trong xã hội. Tuy nhiên tâm hồn cậu bé lại có nhiều tình thương hơn tôi, nên cậu thực sự là người giàu sang hơn tôi”…

4) CẢM THÔNG TRỢ GIÚP NGƯỜI BẤT HẠNH:

Có một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn chế nhạo, bắt nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm cha cậu nhặt được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết… con chó được đặt nằm xuống gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ dáy này, cậu dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm ngoài cửa kêu ăng ẳng thảm thiết.

Cha cậu nghe tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với cậu bé. Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói: “Tại sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?”. Cậu bé nói: “Bởi vì chân con có tật, con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con”. Người cha lúc đó mới ôn tồn nói: “Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên chúng bắt nạt con. Còn bây giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại sao con lại không biết thương cảm nó?”. Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước mắt, một lúc sau cậu ẵm con chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó… Sau này cậu bé lớn lên trở thành một vị bác sĩ nổi tiếng về lòng nhân hậu và cậu đã được mọi người chung quanh yêu thương và kính trọng.

3. SUY NIỆM:

1) Thực trạng giàu nghèo trên thế giới hiện nay:

Hiện nay tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển. BIU GHẾT (Bill Gates) giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông thì Liên Hiệp Quốc sẽ có đủ tiền chi cho công cuộc cải cách giáo dục căn bản, phục vụ sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài. Hiện nay hố sâu ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo đang sống tại đô thị và vùng nông thôn càng lúc càng lớn. Có 800 triệu “La-da-rô” đang lâm cảnh đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ “La-da-rô” đang bệnh tật mà không được thuốc thang chữa trị. Hàng ngày vẫn có bao người bị chết đói, vì không được hưởng những thực phẩm dư thừa từ các bàn tiệc của những người giàu có. Dửng dưng trước sự đau khổ của người khác cũng chính là một tội ác lớn lao.

2) Trong dụ ngôn:

Ông phú hộ bị phạt sa hỏa ngục vì ba tội này:

- Ăn mặc lụa là xa hoa, phung phí, do thói xấu kiêu căng.

- Ăn uống yến tiệc linh đình do dung dưỡng xác thịt.

- Bất nhân, ích kỷ, làm ngơ không giúp đỡ La-da-rô nghèo khổ ngoài cổng nhà mình.

Anh Ladarô nghèo khó được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì:

- Vui lòng chịu đựng sự nghèo hèn, bệnh tật đau khổ giống như thánh Gióp, xưa đã dâng những hy sinh đau khổ lên Đức Chúa.

- Không hề than trách trời đất và buồn hận ông phú hộ được ăn sung mặc sướng. La-da-rô cũng giống như thánh Gióp trong Cựu ước: Trong lúc đau khổ cực độ, đã vui lòng chấp nhận đau khổ và tự nhủ mình rằng: Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!” (G 1,21)

3) Phải tránh thái độ ích kỷ: làm ngơ trước nhu cầu của tha nhân:

- Có người đã bênh ông phú hộ trong bài Tin Mừng khi cho rằng ông ta không đáng bị phạt trong hỏa ngục vì các lý do sau:

Ông ta đâu có gian tham trộm cắp, đâu có bóc lột người nghèo…

Cuộc sống của ông ta chỉ là ngày ngày ăn nhậu tiệc tùng dư thừa. Nhưng hưởng thụ những gì thuộc về mình thì đâu phải là cái tội? …

- Tuy nhiên, tội của ông phú hộ không phải là sự giàu có, mà ở thái độ ích kỷ khi làm ngơ, không quan tâm đến La-da-rô nghèo đói bệnh tật đang nằm ngay trước cổng nhà ông ta. Ở liền kề bên nhau mà không nhìn thấy, không giúp đỡ thì quả là một con người bất nhân thất đức. 

Tội ích kỷ làm ngơ của ông phú hộ đã trở thành tội ác khi do không chịu ra tay giúp đỡ kịp thời, khiến anh La-da-rô bị kiệt sức và chết, nên ông ta đáng bị Chúa trừng phạt trong lửa hỏa ngục ! Tương tự như: khi thấy một người sắp bị chết đuối đang kêu cứu mà ta không cấp thời cứu giúp, lại lấy điện thoại ra quay phim chụp hình để đưa lên mạng câu like !!! như đã và đang xảy ra nơi một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ sinh viên học sinh hiện nay: Thấy nhà hàng xóm bốc cháy mà vẫn bình chân như vại, không cấp thời báo đng để kịp thời dập lửa; Thấy một người khuyết tật mù loà sắp bị xe lửa cán chết trên đường rầy mà không mau cứu thoát...

Bác sĩ AN-BỚT SUÝT-DƠ (Albert Schweitzer), người đã bán hết gia tài to lớn để xây dựng một bệnh viện cứu giúp những người cùng khổ ở Châu Phi, đã đặt vấn đề như sau: "Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc khi còn biết bao người khác đang bị đau khổ ở chung quanh ta?".

4) Chúng ta phải bắt đầu thực hiện việc chia sẻ bác ái từ đâu?:

- phải bắt đầu từ gia đình mình trước: Mẹ Tê-rê-sa CAN-QUÝT-TA nói: "Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố. Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát bên cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm việc bác ái ồn ào”.

- Tình thương phải được thực hiện từ một cá nhân cụ thể: Muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc trực tiếp với người đó, gần gũi với người đó. Mẹ Tê-rê-sa kể tiếp: "Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bom-bay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia... Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này đã phải bị chết đói!".

- Phải biết tích tiểu thành đại: Theo Mẹ Tê-rê-sa nói: "Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi, mà chỉ nhìn đến từng cá nhân. Bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ có khả năng nuôi được một người. Tôi đã chỉ đưa được một người về nhà. Nhưng nếu tôi không đưa một người ấy thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu mất nhiều giọt nước khác".

- Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài giảng lễ Chúa nhật tại vận động trường Yăng-ki (Yankee) Nữu Ước trong chuyến thăm nước Mỹ 1979 đã phát biểu về việc chia sẻ bác ái như sau: “Người nghèo khổ nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới đều là anh em của các bạn trong Chúa Ki-tô. Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo cho mình cái chính yếu của cuộc sống, và đừng tìm sống sung túc, để nhờ đó, các bạn có thể giúp đỡ cụ thể cho những người nghèo khổ. Ngoài ra các bạn còn phải đối xử với họ như những vị khách quí trong gia đình các bạn nữa”.

4. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì trong những ngày sắp tới để giúp đỡ cụ thể cho một cụ già neo đơn, một trẻ em mồ côi hay một bệnh nhân không tiền thuốc thang chữa trị mà bạn quen biết...?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin cho con nhìn thấy những La-da-rô nghèo khó đang ở chung quanh con và đang cần đến sự giúp đỡ của con. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó đến với con, để con không xua đuổi, nhưng tiếp đón họ cách thân tình. Cảm tạ Chúa vì đã dựng nên loài người chúng con ai cũng nghèo về một phương diện nào đó, và ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác... Như vậy chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho hết mọi người đều được nên sung túc giàu có và sống hạnh phúc.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...