Tin Mừng Chúa Nhật III Thường Niên - Năm C

Chúa Nhật III Thường Niên - Năm C   Nghe MP3:    Dẫn vào Thánh Lễ Anh chị em thân mến! Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca thuật lại việc
 

Nghe MP3: 

 

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến! Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu trở về quê nhà ở Nagiareth. Vào ngày Sabat, theo thói quen Người vào hội đường và được viên trưởng hội đường trao cho vinh dự đọc Sách Thánh. Người mở sách và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia nói về người Tôi Trung của Thiên Chúa, nghĩa là ám chỉ về chính Ngài.

Vào hội đường với một tâm hồn hoàn toàn thuộc về Cha. Chúa Giêsu đã khai mở sứ vụ loan báo Tin Mừng của Người. Tuy nhiên, trong hội đường Nagiareth, làng quê của Người, Chúa Giêsu đã vén lộ con người và vai trò của Người cho mọi người. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và được chính Thiên Chúa sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó. Người khẳng định Đấng Mêsia là chính Người.

Tin vui đến với nhân loại, nhưng để có niềm vui thực sự chúng ta hãy thành tâm thông hối để xứng đáng tham dự Mầu Nhiệm Thánh.

Ca nhập lễ

Toàn thể địa cầu, hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy ca mừng Chúa. Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan Người, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu Người.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin hướng dẫn chúng con biết hành động theo thánh ý Chúa, để nhờ kết hợp với con Một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, chúng con đem lại hoa quả dồi dào là việc lành phúc đức. Chúng con cầu xin...

Bài Ðọc I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10

"Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc".

Trích sách Nơ-khe-mia.

Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: "Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: "Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!"

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).

Xướng: Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. 

Xướng: Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. 

Xướng: Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. 

Xướng: Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Ðá, là Ðấng Cứu Chuộc con. 

Bài Ðọc II: 1 Cr 12, 12-30 (bài dài)

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: "Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: "Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: "Ta không cần mi". Ðầu cũng không thể nói với chân: "Ta không cần các ngươi". Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.

Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 4, 18-19

Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 1, 1-4; 4, 14-21

"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.

Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:

"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta kho tàng quí báu là Lời Chúa. Chúng ta hãy khẩn khoản xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết, thực hành và đem Lời Chúa đến cho mọi người. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. “Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa ”.- Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, giúp các ngài thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong niềm tin yêu hy vọng.

2. “Anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người”.- Xin cho các Kitô hữu được Lời Chúa luôn chiếu soi, để giữa cuộc sống với bao vất vả, khổ nhục, họ vẫn được Đức Kitô nâng đỡ hồn xác vì thuộc về Người.

3. “Người giảng dạy trong các hội đường”.- Xin cho những tâm hồn mê muội chai lỳ trong tội biết thay đổi cảm quan để mở rộng lòng đón nhận sứ điệp cứu độ, hầu họ được giải thóat và bình an.

4. “Người đến Nagiareth, nơi Người sinh trưởng”,- Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, biết rao truyền tin vui cứu độ ngay trong giáo xứ của mình, bằng việc tích cực xây dựng cộng đoàn yêu thương hiệp nhất.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình, biết tận dụng mọi hoàn cảnh để rao giảng sứ điệp tình thương của Chúa, nhất là bằng chính đời sống khiêm tốn và bác ái, hy sinh, để danh Chúa được đời đời ca tụng, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận của lễ chúng con dâng, và lấy quyền năng Thánh Thần mà thánh hoá, để nhờ của lễ này, chúng con được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin...

Ca hiệp lễ

Các bạn hãy nhìn về Chúa, thì các bạn sẽ vui tươi, và sẽ không hổ ngươi bẽ mặt.

Hoặc đọc:

Chúa phán: "Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ không đi trong u tối, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống.


Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã rộng ban cho chúng con Mình và Máu Thánh Ðức Kitô, con một Chúa là nguồn mạch sự sống dồi dào; xin cho chúng con được luôn luôn hoan hỷ vì ân huệ Chúa ban. Chúng con cầu xin...

Suy niệm

Bài suy niệm của Lm Pet. Trần Bảo Ninh
 
TIN MỪNG CHÚA NHẬT THỨ 3 THƯỜNG NIÊN C
 
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. (Lc 1, 1-4; 4, 14-21)
 
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
 
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
 
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
 
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
 
Suy niệm

Câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán của mình là làng Nazareth thăm lại gia đình, bạn hữu cùng với những người thân thuộc, đồng thời, sau đó, Ngài vào hội đường với mọi người trong ngày Sabath, vẫn mãi là một đề tài làm cho người nghe băn khoăn về vai trò cứu thế của Ngài cũng như địa vị Con Thiên Chúa của Ngài.

Đức Giêsu đi vào trần gian qua mầu nhiệm nhập thể trong chương trình cứu độ nhân loại của Chúa Cha, Ngài trở nên con người giống chúng ta, chỉ trừ tội lỗi, Ngài đi vào lịch sử nhân loại từ một gia đình. Nơi gia đình đó, Ngài được cha mẹ giáo dục từ đời sống tâm linh, cho đến đời sống nhân bản và tương quan trong cuộc sống với mọi người như thế nào? Đọc lại đoạn tin mừng của thánh Luca trong ngày lễ Thánh Gia: “Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.” Chúng ta nhận ra sự chăm sóc, dạy dỗ của hai ông bà dành cho người con thật đầy đủ.

Trở về làng Nazareth, một hành động đầy tính nhân văn mà Đức Giêsu đã giới thiệu cho nhân loại, dù thế nào, mỗi người có một quê quán, một quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nơi mình được làm người, làm con Thiên Chúa, thì không bao giờ được quên lãng, không được loại bỏ trong cuộc đời. Có thể nói đây là bài học đầu đời hai ông bà đã hướng dẫn cho cậu con trai của mình. “Quê hương mỗi người chỉ một; như là chỉ một mẹ thôi”. Có thể từ nơi đó, Ngài biết và hiểu tâm tính con người như thế nào để rồi khi thi hành sứ vụ, Ngài hướng dẫn cho tất cả con đường gặp gỡ Thiên Chúa, hướng dẫn cho họ luôn tương quan giữa con người với con người. Sau khi tới quê hương, Ngài cùng với gia đình, với cộng đoàn vào hội đường khi ngày Sabath đến.

Bài học thứ hai thánh Giuse cùng Mẹ Maria hướng dẫn cho con trai mình là đời sống tâm linh. Con người không thể sống, không thể tồn tại nếu không có Giavê, bởi thế, ngày Sabath là ngày dành riêng cho Giavê, cũng là ngày Giavê muốn dạy dỗ con người qua lời các Ngôn sứ. Bởi vậy, khi con người muốn hoàn thiện, muốn trở nên tốt lành, hãy đến hội đường cùng nhau cầu nguyện và đọc sách thánh. Bài học về đời sống tâm linh có thể nói là được hai ông bà dạy dỗ cách kỹ càng và hầu như mỗi ngày, để rồi chàng thanh niên Giêsu sau khi ra đi thi hành sứ vụ của Chúa Cha, vẫn không quên tới hội đường để cầu nguyện với cộng đoàn.

Hai bài học đầu đời của hai ông bà nơi gia đình Thánh này, đã hướng cuộc đời người con trai ngày một lớn lên trong sự khôn ngoan, ân sủng và tuổi tác. Khi chấp nhận làm người, chắc hẳn Đức Giêsu cũng phải chấp nhận những giới hạn trong một con người, cần phải học hành, cần phải được giáo dục, cần phải được chỉ dạy mới có thể trở nên con người hoàn thiện. Chính phương cách chấp nhận giới hạn của con người nơi Đức Giêsu, chúng ta có thể khám phá giá trị siêu việt của tình yêu tự hiến. Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu tuyệt đối của Ngài dành cho con người khi sai người con đi vào lịch sử con người, trở nên con người, sống với con người, và hơn nữa là chết cho con người. Mầu nhiệm tự hiến nơi Đức Giêsu hé lộ cho chúng ta thấy ước mong của Thiên Chúa là đưa con người ra khỏi tình trạng nô lệ của tội, để đi vào trong thế giới tự do của nước Trời.

Rồi từ đây, Đức Giêsu gặp lại đoạn Kinh thánh của Ngôn sứ Isaia. Đọc đoạn Kinh thánh đó, Ngài thấy sứ vụ của mình rõ nét hơn và gấp rút hơn trước nỗi đau của nhân loại. Khởi đi từ hậu quả của tội lỗi, Ngài cho chúng ta thấy sự hiện diện của Ngài sẽ đem lại cho nhân loại một tương lai hy vọng hơn, đầy niềm vui và hạnh phúc hơn. Con Thiên Chúa đi vào trần gian với sứ mạng cứu độ con người. Chứng kiến những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần, Đức Giêsu động lòng trắc ẩn, Ngài thấy họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Quả thực, khi tội lỗi hoành hành trong thế giới này, con người như mất định hướng cho cuộc đời của mình, họ nhận chịu những hậu quả của tội với bao bệnh tật và nghèo túng, với bao chết chóc và chia rẽ trong cuộc sống. Bao nhiêu người sống cảnh tù đày trong tội, bao nhiêu người sống cảnh tang thương vì áp bức của sự chết. Chứng kiến những nỗi đau của con người, Đức Giêsu đã lên đường, đến với mọi người, mọi nhà, mọi dân tộc, khởi đi từ những người nghèo khổ, đói khát, cho đến những người phong cùi, bại liệt, kể cả những kẻ không cùng tôn giáo với nhau. Quả là một tình yêu không biên giới, một tình yêu không vụ lợi, một tình yêu không tính toán.

Hôm nay, nơi mái ấm gia đình, những người cha, người mẹ đã ý thức đủ trách nhiệm giáo dục con cái với những bài học đầu đời đó chưa? Thay vào đó, họ chỉ chăm chú việc ăn uống, việc học hành của con cái và để quên những bài học tinh thần, những bài học nhân văn cần thiết cho việc làm người, làm con Thiên Chúa. Sống trong một thế giới thực dụng, người Kitô hữu thực sự thấy đời sống tâm linh là một yếu tố cần thiết hay chỉ là một nhu cầu như bao nhu cầu khác của mỗi người. Chính lúc con người cúi xuống cầu nguyện, là lúc con người trở nên vĩ đại nhất. Họ đã quên mất điều đó.

Đời sống ơn gọi nào cũng vậy, luôn có những lời mời nên thánh. Lắm lúc con người đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho công việc, cho sự biến động của xã hội, để rồi làm phai nhạt linh đạo của ơn gọi, của cộng đoàn. Đức Giêsu mỗi ngày luôn khám phá sứ vụ của mình được Cha giao khi vào trần gian là thế, Ngài luôn dành chỗ nhất cho thánh ý Cha trước mỗi biến cố. Nếu như hôm nay, con người họa lại hành trình ơn gọi của mình để nên giống Thầy Giêsu, chắc chúng ta không để cho những yếu tố của xã hội và cuộc sống làm tục hóa linh đạo của mỗi người, mỗi cộng đoàn. Vì vậy, hãy cùng với Đức Giêsu đọc Kinh thánh mỗi ngày, học Kinh thánh mỗi ngày và sống theo sự hướng dẫn của Kinh thánh mỗi ngày.

Lạy Chúa Giêsu, khi bước vào trần gian để cứu độ con người, Chúa đã nên giống chúng con và mỗi ngày, Chúa mời chúng con lớn lên khởi đi từ những bài học nơi gia đình. Những bài học đó giúp chúng con làm người, làm con trong các gia đình vẹn toàn hơn, đặc biệt làm con Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết chọn lựa những giá trị hoàn thiện để sống và hướng tới mỗi ngày. Xin Chúa giúp chúng con luôn thao thức với ơn gọi là sứ giả của tin mừng niềm vui và hy vọng, để chúng con cố gắng đến với anh chị em đang đau khổ, đang tủi nhục vì bệnh tật, đang bị bỏ rơi trong thế giới vì hận thù, vì oán hờn và ganh tị. Xin Chúa đồng hành với mỗi người trong ơn gọi của mình để dựng xây nước Trời ngang qua tình người, tình gia đình. Amen.

 

Lm Pet. Trần Bảo Ninh


LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG
(Chúa Nhật III TN C) - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
 
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 1-3).

Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x. MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh Vịnh đáp ca và bài Tin Mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.

Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21).

Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18-19).

Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do… (x. Xh 21, 2; Lv 25, 1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25, 8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư… như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.

Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3, 16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đỗi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1, 1).

Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố Lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố Lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18, 37).

Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12, 28-34; Mt 5, 43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.

Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy Giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy Giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7, 18-23).

“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8, 34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời. Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng. Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm (x. Mc 2, 1-12).

Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột



Công bố Năm Hồng Ân
Sưu tầm

Sau khi Chúa Giêsu đã lãnh nhận lễ rửa của Gioan và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giuđê một thời gian rồi quay về Galilê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Luca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được dồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.

Nơi đâu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài giảng đầu tiên là tại hội đường Nadaret không phải là một làng, nó được gọi là ‘Polis’ nghĩa một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Nadaret tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn ra phong cảnh từ đỉnh đó như sau: “Lịch sử của Israel mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Êlia đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh canh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ea từ trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba con đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thường gia chở nặng hàng háo từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngọ. Chính nơi đây Chúa Giêsu đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.

Hôm ấy là ngày sabat. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giêsu đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn được nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon. Chúa Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsia (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đâu với câu “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi”, đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thương như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải póng hco những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải póng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giêsu đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.

Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.

Khi Chúa Giêsu giảng dậy trong các nhà hội, thường vẫn có đọc Sách Thánh, như đây là cơ hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh “Thần Khí Chúa ngự trên tôi.” Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri Isaia đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố “Thần Khí Chúa”, Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và bây giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.

Trước những người đồng hương Nagiarét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giêsu đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: “Đây không phải là con ông Giuse sao?” Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Kitô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo ký và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhẫn ra Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đã bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.

May mắn hơn dân làng Nagiarét, chúng ta biết được nghĩa Chúa Giêsu áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giêsu áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giêsu dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ “Thần Khí” hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ “Đức Chúa” trong ý của Chúa Giêsu phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.

Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giêsu. Lời sấm trong sách tiên tri Isaia cho thấy một sự hiện diện qua việc xức đầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.

Chúa Kitô quả quyết Ngài được xức dầu do Đức Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giêsu được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là “Đấng được xức dầu”. Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thầnt hánh hiến.

Việc xức dầu là đề hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giêsu loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. Điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng… Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (61,2), Chúa Giêsu ngừng lại sau “Năm hồng ân” và bỏ qua loan báo “ngày báo phục”. Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng “Năm hồng ân” diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên “Thần Khí Chúa”. Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giêsu thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Kitô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giêsu. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động cho Chúa Con, chính Ngài qua Chúa con “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ.” Khi Chúa Giêsu hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. Chính Chúa Giêsu cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?” Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện tinh thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giêsu trích dẫn chính lời tiên tri Isaia, và kể lại cho Gioan điều mắt thấy tai nghe: “Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.” (Mt 11,4,6)

Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Kitô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: “Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Kitô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao,
Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.

Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Kitô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Kitô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung…”


 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...