Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm C
Kính Lòng Chúa Thương Xót
Ga 20,19-31
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm C
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Ki-tô và cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh, đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt mà Đấng Phục Sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vuii Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ bẻ bánh, và sau cùng là sai họ đi rao giảng Tin Mừng cho nhân loại.
Nhân loại đang trong cuộc hành trình đức tin, nhiều cạm bẫy và đầy cam go. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi để xứng đáng cue hành mầu nhiệm vượt qua này.
Ca nhập lễ
Như trẻ sơ sinh, anh em hãy ao ước sự thiêng liêng không phôi pha, để nhờ đó anh em lớn lên trong ơn cứu độ – Allêluia.
Hoặc đọc:
Anh em hãy nhận lãnh niềm vui vinh quang của anh em, hãy tạ ơn Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào nước trời – Allêluia.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa phục sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: chính Chúa Kitô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, đã tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16
“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Xướng: Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi.
Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19
“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, đã ban Đức Ki-tô cho nhân loại, để ai tin vào Người thì được cứu độ. Tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, chúng ta cùng dâng lên Người những lời nguyện xin:
1. “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các mục tử trong Hội Thánh, luôn mang nơi mình trái tim yêu thương của Đấng Phục Sinh, để các làm chứng cho lòng thương xót của Người.
2. “Bình an cho anh em”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới, nỗ lực xây dựng hòa bình và công lý, để đem lại hạnh phúc cho mọi người.
3. “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai đang gặp thử thách về đức tin, cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Chúa, để can đảm đặt niềm tin nơi Người.
4. “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta, luôn trở nên dấu chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa, bằng đời sống yêu thương và dấn thân phục vụ mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin cho chúng con trở nên chứng nhân của lòng thương xót qua đời sống yêu thương và hiệp nhất, để đem sự bình an và tình thương của Chúa đến với những người mà chúng con gặp gỡ. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận lễ vật của chúng con (và đặc biệt là của những anh chị em tân tòng) Chúa đã cho mọi người chúng con được đổi mới nhờ đức tin và nhờ bí tích thánh tẩy, xin cũng dẫn đưa chúng con tới hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Phục Sinh I
Ca hiệp lễ
Con hãy xỏ ngón tay vào đây, hãy nhìn xem những vết đinh, và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin – Allêluia.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Thánh Ðức Kitô là Ðấng đã chết và sống lại để ban sự sống đời đời cho thế gian. Cúi xin Chúa làm cho ân huệ quý báu này được tồn tại mãi trong tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
dấu vết riêng của người môn đệ
“Bình an cho anh em… Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Hãy nhận lấy Thánh Thần…” (Ga 20,19-31)
Suy niệm: Chúa Phục Sinh hiện đến, trao ba điều: bình an, sứ mạng, và Thánh Thần. Sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Chúa Phục Sinh chỉ là tạm thời: Người sẽ về cùng Cha. Nếu Người có tiếp tục hiện diện với các môn đệ ‘mọi ngày cho đến tận thế’, thì đó là hiện diện trong Thánh Thần, bảo chứng của bình an và nguồn lực của sứ mạng. Từ đây, ‘dấu vết riêng’ ghi trong căn cước của người môn đệ Chúa Giê-su sẽ là sự hiện diện của Thánh Thần. Không thể trực tiếp thấy Thánh Thần nơi tôi, nhưng thế giới có thể thấy dấu vết của Ngài nơi sứ mạng của tôi và nơi sự bình an sâu thẳm (phát tiết thành niềm vui sâu thẳm) trong tâm hồn tôi, cho dẫu bao thăng trầm, bao nghịch cảnh.
Mời Bạn: ‘Dấu vết riêng’ của người môn đệ Chúa Phục Sinh có nơi bạn không? Tôi có đang thi hành sứ mạng (bằng hình thức nào đó) không? Tôi có đang thật sự cảm nếm niềm bình an sâu xa không? Nói cách khác: tôi có đang sống trong Thánh Thần của Chúa Phục Sinh không?
Chia sẻ : Bạn đã từng cảm nghiệm được niềm bình an sâu xa mà ngay giữa hoàn cảnh đầy bất an và tăm tối chưa? Sự bình an đó có gắn liền với sứ mạng và với kinh nghiệm của bạn về Chúa Thánh Thần không?
Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận hằng ngày của bạn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tâm hồn bình an để những Tô-ma của ngày nay thấy được và sờ được sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh qua cuộc sống của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin chiếm lĩnh trọn vẹn con người con, để con không bao giờ đánh mất bình an, và không bao giờ xa rời sứ mạng. Amen.
BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH (Ga 20, 19 – 31)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình thầy trò chưa cạn, ngày mà các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ người Do Thái như Tin Mừng Gioan mô tả. Bỗng Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã phục sinh! Người đứng giữa những người đang thương tiếc Người, đang khóa mình sau những cánh cửa đóng kín, đầy sợ hãi, đau khổ và nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Người chỉ ra những vết thương ở đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi sống lại. Người không phải là ma; nhưng thực sự là Thầy của các ông đã chết treo trên thập tự giá và được an táng trong mồ. Trước con mắt ngờ vực của các môn đệ, Chúa lặp lại: “Bình an cho các con!“.
“Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Ðây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là ơn quí trọng Chúa Kitô Phục Sinh cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã trải qua cái chết thương đau. “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Đây là hồng ân phát sinh từ những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trao ban bình an cho các môn đệ như lời Người đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Bình an này là chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh, hoa trái tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ và tha thứ. Các môn đệ hết sức vui mừng khi Chúa trao ban bình an. Sợ hãi cũng biến mất nơi các ông. Đúng thế, đây là bình an đích thực, bình an sâu thẳm đến từ trái tim xót thương của Thiên Chúa. Cùng với sự trao ban ơn bình an, Đức Kitô Phục Sinh cũng trao Thánh Thần cho các Tông Ðồ để các ngài chuyển cho thế giới ơn tha thứ tội lỗi, ơn mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban, vì nó đã được trả bằng giá Máu của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa (x. Ga 20,21-23). Bình an mang lại sự tha thứ cho các ông và qua các ông, người khác cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi. Tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an.
Không hiểu sao buổi chiều hôm ấy, Tôma đi đâu mà vắng mặt lúc Thầy viếng thăm, dẫn đến lời tuyên bố trước anh em rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các ông, có Tôma ở đó. Chúa Giêsu nói với Tôma, mời ông nhìn các vết thương của Ngài và sờ vào chúng, Tôma kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Chúa Giêsu nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta có thể gọi là mối phúc của lòng tin.
Những người đã không trông thấy nhưng đã tin đó là là các môn đệ, các người nam nữ khác của thành Giêsusalem, dù đã không gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, nhưng đã tin vào chứng tá của các Tông Ðồ và các phụ nữ.
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Đức Thánh Cha Phanxicô xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Chúng ta tự hỏi: Thế giới đang cần gì? Nước Việt nam cần gì? Bản thân chúng ta cần gì? Thưa: Lòng thương xót!
Hàng ngày, trên các phương tiện truyền thông báo chí, chúng ta vẫn nghe chiến tranh tại Ucraina. Vậy nhân loại cần gì? Thưa: Lòng thương xót, chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới cứu con người khỏi chiến tranh. Và lòng thương xót Chúa phải đi đôi với lòng thương xót của chúng ta. Tình yêu là tên gọi thứ hai của lòng thương xót. Nếu con người biết yêu thương nhau, thì con người mới xứng đáng lãnh được lòng thương xót của Chúa, và chiến tranh mới lui dần. Con người càng thương xót nhau, càng yêu thương nhau, thì chiến tranh càng bị đẩy lùi. Vì vậy chúng ta phải thành thật nhận lỗi của mình thì chúng ta mới có thể thể hiện được lòng thương xót của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót chúng con và ban bình an cho thế giới. Amen.
CẢM NHẬN VÀ LÀM CHỨNG CHO LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH – NĂM C
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được gọi là Tông đồ của Lòng Chúa thương xót. Ngài đã cổ võ lòng sùng kính Lòng Chúa thương xót và đã có sáng kiến thiết lập ngày lễ kính Lòng Chúa thương xót vào Chúa nhật II Phục sinh hằng năm. Trong một bài giảng về Lòng Chúa thương xót, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã tuyên bố như sau: “Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về Tình Yêu của Ngài, Tình Yêu ấy mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Tình Yêu ấy được mạc khải và được thực hành là Lòng Thương Xót, thúc giục mỗi người đáp lại tình yêu với Đấng bị đóng đinh… Với những tâm tình đó, chúng ta cử hành Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh từ Năm Toàn Xá (năm 2000). Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót (Divine Mercy Sunday)”.
Thực ra, giáo huấn về Lòng Chúa thương xót không phải là một khám phá mới của Thánh Gioan Phaolô II. Lòng Chúa thương xót được thể hiện trên từng trang của Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước. Lịch sử Thánh, hay lịch sử Cứu độ ghi lại một chuỗi liên hoàn những phản bội của con người và lòng bao dung của Thiên Chúa. “Ngài là Đấng chỉ nổi giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời” (Tv 29,6). Hôm nay cũng vậy, con người lãng quên Thiên Chúa, thậm chí muốn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài. Thánh Gioan Phaolô đã có công khơi gợi lại hình ảnh của Lòng Chúa thương xót, dựa vào nền tảng Kinh Thánh và những mạc khải tư Chúa tỏ cho thánh nữ Faustina, người đồng hương với Ngài, và cũng là người tông đồ được Chúa chọn làm sứ giả của Lòng Chúa thương xót.
Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót của Chúa” (Nhật Ký, 300). Bối cảnh xã hội hiện tại cho thấy nhiều lo âu: Đại dịch Covid-19 chưa chấm dứt, thì lại nổ ra cuộc chiến tranh tàn khốc tại Ucraina. Trong thời đại vẫn được mệnh danh là thời hoà bình, mà cuộc chiến sát nhân vẫn xảy ra. Mặc dù biết bao lời kêu gọi, phê phán và lên án, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, trái lại còn đang nguy cơ leo thang và lan rộng. Tôn vinh Lòng Chúa thương xót và thiết tha cầu nguyện sẽ giúp cho thế giới tìm lại hoà bình. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy, qua thánh nữ Faustina.
Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Lòng Chúa thương xót là tặng phẩm Phục Sinh. Trong Mùa Chay và Tuần Thánh, chúng ta đã cử hành và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thập giá diễn tả một cách hoàn hảo Lòng Chúa thương xót. Hình ảnh người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê được mô tả trong sách Ngôn sứ Isaia đã thực hiện nơi Đức Giêsu: Người không còn hình dạng cho chúng ta nhìn ngắm. Người mang lấy trên thân mình tất cả tội lỗi nhân gian. Thiên Chúa đã “đánh phạt” Người (x. Is 52,13-53,12). Quả vậy, trên cây thập giá, Đức Giêsu như một tội nhân khốn khổ và như một người nghèo khó tới mức tột cùng. Dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người: “Lạy Thiên Chúa! Lạy Thiên Chúa! sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).
Khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót, chúng ta hãy nhận ra Người đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Giêsu Phục sinh không phải một câu chuyện huyền thoại, cũng không phải một câu chuyện của thời xa xưa. Trái lại, Đấng Phục sinh đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Ngỏ lời với người trẻ trong Tông huấn “Chúa Kitô đang sống”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúng ta cần luôn tự nhắc mình là Chúa Kitô đang sống, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng đang sống. Người là Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn. Vì thế Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr 15,17) (số 124).
Tông đồ Tôma đại diện cho trường phái hoài nghi, chỉ tin vào những gì cảm nghiệm bằng giác quan và sẵn sàng thách thức những điều kiện để tin. Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã cho ông một kinh nghiệm: Không phải chỉ những gì động chạm được bằng chân tay hay nhìn thấy tận mắt, thì mới đáng tin. Hơn nữa, “phúc cho những ai không thấy mà có lòng tin”. Cuộc gặp gỡ này giúp ông tin mà không cần “thấy dấu đinh ở tay Người, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người”. Đứng trước Đấng Phục sinh, những thách thức này trở nên vô nghĩa.
Cùng với Tôma, chúng ta hãy tôn thờ Đấng Phục sinh và tuyên xưng Đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Câu tuyên xưng này cũng đồng nghĩa với lời kinh chúng ta vẫn đọc khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!”. Hãy để Đấng Phục sinh đi vào cuộc đời chúng ta, để Người thay đổi tận căn trái tim và hành động của chúng ta. Nhờ được thấm nhuần Lòng Chúa thương xót, người Kitô hữu trở nên chứng nhân của Lòng Chúa xót thương.
TÁM NGÀY SAU
(CHÚA NHẬT TUẦN 2 PHỤC SINH)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 2 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Hằng năm Chúa dùng ngọn lửa phục sinh, mà khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng, để chúng ta hiểu rằng: chính Chúa Kitô đã thanh tẩy chúng ta bằng Bí Tích Thánh Tẩy, đã tái sinh chúng ta bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng ta bằng Máu Thánh.
Xin khơi lại niềm tin, gia tăng ân sủng, để ta sống một đời sống mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Sự sống mới trong Chúa Kitô, được thanh tẩy rồi, sự sống mới của người tín hữu tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa, nên từ nay, thái độ người Kitô hữu đối với chính mình cũng như với cộng đoàn anh em phải thay đổi tận gốc rễ. Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.
Xin khơi lại niềm tin, gia tăng ân sủng, để ta giữ vững niềm trông cậy vào Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói về: Thụ tạo mới trong Đức Kitô… Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa vì được kết hợp với Đức Kitô Giêsu.
Xin khơi lại niềm tin, gia tăng ân sủng, để ta sống triển nở ơn gọi Kitô hữu, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa; cả đàn ông đàn bà rất đông. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 117, vịnh gia kêu xin: Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, trích sách Khải Huyền: Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Này anh Tôma, vì đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc thay những người không thấy mà tin. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật: Tám ngày sau, Đức Giêsu đến. Ông Tôma thấy Thầy, nhưng, ông tin Thầy mình là Thiên Chúa. Đức tin là bằng chứng cho những điều ta không trông thấy, ta thật có phúc, cho dù, ta không được thấy Đức Giêsu Phục Sinh, như ông Tôma, nhưng, ta vẫn cứ tin Người là Thiên Chúa. Tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến để củng cố đức tin cho các môn đệ và để tỏ mình cho Tôma được thấy. Tám ngày sau, những trẻ vừa mới được sinh ra, những trẻ nhỏ trong Đức Kitô, con cái của Hội Thánh mới được sinh ra. Tám ngày sau, con cái của Hội Thánh lãnh nhận trọn vẹn dấu ấn đức tin. Dấu ấn này là phép cắt bì các tổ phụ xưa đã lãnh nhận trong thân xác vào ngày thứ tám, sau khi chào đời. Vì thế, khi sống lại, Chúa đã rũ bỏ thân xác phải chết; Người trỗi dậy không phải với thân xác khác, nhưng, với thân xác không phải chết nữa. Người đã ấn định ngày Người sống lại là ngày thứ ba sau cuộc Thương Khó, đó là ngày thứ tám sau ngày Sabát, cũng chính là ngày đầu tuần. Đó là ngày Chúa đã làm ra, ngày của Lòng Chúa Xót Thương, ta hãy vui mừng hoan hỷ loan truyền Lòng Thương Xót Chúa đến cho tất cả mọi người. Ước gì Chúa gia tăng ân sủng, để chúng ta hiểu rằng: chính Chúa Kitô đã thanh tẩy chúng ta bằng Bí Tích Thánh Tẩy, đã tái sinh chúng ta bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng ta bằng Máu Thánh. Ước gì được như thế!
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm C
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến” (Ga 20, 19-31)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm C
Tác giả: TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Giọng đọc: Thanh Tâm
NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ
Suy niệm Chúa Nhật II Phục Sinh -Năm C của TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa Giêsu đã sống lại. Các tác giả Tin Mừng đều khẳng định với chúng ta điều ấy. Tuy vậy, việc Chúa sống lại không phải được đón nhận một cách dễ dàng. Chính các môn đệ, khi nghe mấy người phụ nữ báo tin Chúa đã sống lại, các ông cũng cho là “vớ vẩn”, nên không tin. Đức tin vào Chúa phục sinh chỉ được củng cố sau khi được kiểm nghiệm. Việc kiểm nghiệm này là việc gặp gỡ Chúa Phục sinh. Tin vào Chúa Phục sinh là một hành trình đầy những khám phá bất ngờ.
Trước hết là những bất ngờ nơi các môn đệ. Trong tâm trạng hoang mang sợ hãi, các ông đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Cùng với những cánh cửa đóng kín, tương lai của các ông dường như cũng khép lại. Chính vào lúc bi quan chán nản ấy, Chúa dành cho các ông một bất ngờ lớn: Người hiện diện giữa họ trong khi cửa vẫn đóng kín. Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu đã trở thành Đấng Thần Linh, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Qua việc tỏ cho các ông thấy những vết thương, Người chứng minh sự hiện diện của Người là bằng xương bằng thịt, là người đã chết trên thập giá trước đó chứ không phải là một bóng ma. Sự bất ngờ này đem lại cho các tông đồ niềm vui mừng khôn tả.
Cùng với điều bất ngờ được gặp lại Chúa Giêsu, Đấng trở về từ cõi chết, các tông đồ còn được nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, các ông trở nên mạnh mẽ can đảm. Các ông cũng được soi sáng để hiểu biết sứ vụ thiên sai của Thày mình, đồng thời nhớ lại những giáo huấn của Chúa với một lăng kính mới. Từ nay, các ông hiểu rằng, các ông phải thay Thày mình để điều hành cộng đoàn Kitô hữu non nớt. Họ không còn là những môn đệ phụ thuộc nơi Thày mình, nhưng họ được ban quyền tha thứ và cầm buộc, quyền năng ấy lớn lao đến nỗi các ông tha tội cho ai thì trên trời cũng tha, và các ông ràng buộc ai thì trên trời cũng ràng buộc.
Những ai còn nghi ngờ sự Phục sinh của Chúa, cũng sẽ được gặp những bất ngờ. Tôma đại diện cho những người theo “chủ nghĩa hoài nghi”, tức là chỉ tin vào những gì cảm nhận được bằng giác quan. Ông đã thách thức Chúa: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn, thì tôi không tin”. Lời thách thức mang tính chất gay gắt. Có lẽ khi tuyên bố hùng hồn những lời thách thức này, Tôma không ngờ Chúa lại chấp nhận những thách thức của ông. Vì thế mà tám ngày sau, tức là cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện đến để chấp nhận những thách thức của ông. Sự việc quá bất ngờ, khiến Tôma không biết phản ứng thế nào, chỉ còn biết quỳ gối xuống với lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Lời tuyên xưng của Tôma thể hiện một tâm trạng lúng túng rối bời. Ông đã từng mong ước được nhìn thấy vết đinh, thọc tay vào lỗ đinh và vào cạnh sườn, nhưng nay ông quá bất ngờ khi thấy Chúa. Ông chẳng còn can đảm mà dám làm những điều trước đây ông ước ao, tức là thọc ngón tay và lỗ đình và thọc bàn tay vào cạnh sườn Thày. Những thách thức hùng hồn của kẻ đa nghi sẽ có lúc rã tan khi gặp những bất ngờ.
Những ai tin tưởng phó thác nơi Chúa, sẽ được gặp Ngài. “Phúc cho ai không thấy mà có lòng tin”, Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma điều ấy. Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, chúng ta tin vào Chúa Phục sinh mặc dù không được thấy Người bằng con mắt giác quan. Như thế, chúng ta là những người được chúc phúc. Nếu chúng ta không được nhìn thấy Chúa Phục sinh bằng con mắt giác quan, thì Thánh Gioan tông đồ giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang của Người. Tác giả được nhìn ngắm Chúa Giêsu, vừa như một Đấng chiến thắng vinh quang, vừa như một Thiên Chúa được tôn thờ ca ngợi bằng một lễ nghi thờ phượng trên trời (Bài đọc II).
Nếu những người xung quanh chúng ta hoặc những người theo chủ nghĩa “đa nghi” không nhìn thấy Chúa Phục sinh, họ có thể thấy Ngài nơi cuộc sống của các tín hữu. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã làm lan tỏa hình ảnh sống động của Đấng Phục sinh, nên phát triển nhanh chóng. Nhờ Chúa Phục sinh hiện diện nơi các tông đồ, mà các ông có khả năng chữa bệnh và làm những phép lạ hiển hách như Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài chịu khổ nạn và phục sinh (Bài đọc I). Nếu những tín hữu phản ánh hình ảnh của Đức Kitô Phục sinh, những người sống xung quanh chúng ta sẽ có những khám phá bất ngờ về Đức Giêsu và về Giáo Hội của Người. Hôm nay cũng là Chúa nhật kính lòng thương xót của Chúa. Mục đích của việc tôn kính lòng thương xót Chúa là giúp mỗi người nhận ra Chúa là Đấng yêu thương con người và thương xót tha thứ những lỗi lầm của họ. Tình yêu thương ấy được thể hiện và chứng minh qua cái chết và cuộc phục sinh của Đức Giêsu Kitô, đồng thời mời gọi mỗi người tin Chúa hãy thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Việc thực thi lòng thương xót nơi các tín hữu là một bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của Đấng Phục sinh giữa chúng ta.