TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXIII Thường Niên – Năm C

“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”. (Lc 14, 22-33)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Đối thoại Liên Tôn trong đời sống Gia Đình

Thứ bảy - 06/09/2025 16:47 | Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Duy Khương |   41
Người Kitô hữu khi thi hành sứ mạng trong môi trường đa nguyên tôn giáo, đặc biệt trong bối cảnh của gia đình liên tôn.
Đối thoại Liên Tôn trong đời sống Gia Đình

ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: MỘT PHƯƠNG THỨC LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI VIỆT NAM


WHĐ (06/9/2025) - Người Kitô hữu khi thi hành sứ mạng trong môi trường đa nguyên tôn giáo, đặc biệt trong bối cảnh của gia đình liên tôn, được mời gọi không chỉ loan báo Tin Mừng cho những thành viên khác đạo trong gia đình của mình nhưng còn cần để tâm khám phá và phát huy những giá trị của Nước Trời và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong khi tiếp cận với các truyền thống tôn giáo khác qua việc thực hành đối thoại liên tôn, nhất là đối thoại bằng đời sống. Trong những nỗ lực nhằm xây dựng các mối hiệp thông liên vị trong các gia đình liên tôn, đối thoại bằng đời sống phải được phát huy và củng cố qua những nỗ lực sống tốt mối tương quan với các thành viên trong gia đình.

Dẫn nhập

1. Môi trường đa dạng tôn giáo tại Việt Nam

a/ Sự đa dạng tôn giáo tại Việt Nam

b/ Sự Hiện Diện Gần Gũi của Các Tôn Giáo tại Việt Nam

2. Quan điểm của Giáo hội đối với các tôn giáo khác

a/ Sự Nhìn Nhận của Giáo Hội Đối Với Các Tôn Giáo Khác

b/ Đường hướng Đối Thoại Liên Tôn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

3. Các Hình thức đối thoại liên tôn

a/ Đối Thoại Bằng Đời Sống

b/ Đối Thoại Bằng Hành Động

c/ Đối Thoại Qua Việc Trao Đổi Thần Học

d/ Đối Thoại Qua Kinh Nghiệm Tôn Giáo

4. Đối Thoại Liên Tôn Trong Đời Sống Gia Đình

a/ Gia đình liên tôn

b/ Đạo Hiếu

c/ Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên

Kết luận

Dẫn nhập

Sứ mạng của Giáo hội là duy nhất nhưng sứ mạng ấy được thực hiện theo nhiều cách thức với hoạt động khác nhau tùy theo từng bối cảnh cụ thể. Bối cảnh là một nguồn tài nguyên tác động đến nhận thức và cách thức thi hành sứ vụ của Giáo hội. Điều này là bởi vì “Giáo hội mang bản chất thừa sai nơi mình”[1] và “Giáo hội mang tính thừa sai qua việc thi hành sứ vụ trong từng bối cảnh mà mình hiện diện.”[2] Do đó, “các điều kiện xã hội mà trong đó chúng ta đang sống đòi buộc hết thảy chúng ta phải không ngừng xem xét các phương thức nhằm học hỏi, nghiên cứu cách thức truyền tải sứ điệp Kitô giáo cho con người thời nay.”[3] Trong nhận thức này, bối cảnh là tiền đề và là lý do cho việc Giáo hội tại Việt Nam cần tiếp nhận và thích ứng với việc đối thoại liên tôn trong môi trường đa dạng tôn giáo tại Việt Nam, nhất là trong các gia đình liên tôn, phù hợp với nhận thức tôn giáo của người Việt Nam.

Thật vậy, ngày nay, trong bối cảnh đa nguyên tôn giáo tại Việt Nam, hôn nhân liên tôn giáo đang ngày càng trở nên phổ biến và nhận được nhiều sự quan tâm, chăm sóc của Giáo hội. Thực tế cho thấy số lượng người Công giáo tại Việt Nam chỉ là thiểu số với khoảng 7% dân số Việt Nam. Người Công giáo thường sống tại nhiều nơi bên cạnh những người hàng xóm khác đạo. Bên cạnh đó, việc di dân, việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội cùng với môi trường học tập và làm việc cũng thường xuyên đưa họ đến những gặp gỡ và tương giao với những người khác đạo. Do đó, sự phát triển trong tình yêu và hôn nhân giữa những người khác đạo dẫn đến ngày càng nhiều những gia đình liên tôn. Bối cảnh gia đình liên tôn như thế mang đến cho những người Kitô hữu cơ hội tiếp cận với những người khác đạo, loan báo Tin Mừng và thực hành “đối thoại liên tôn vốn là một phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội.”[4] Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nêu rõ: “Việc phân định sự hiện diện của ‘các hạt giống Lời’ trong các nền văn hóa khác cũng có thể áp dụng cho thực tại hôn nhân và gia đình. Bên cạnh hôn nhân tự nhiên đích thực, trong những hình thức hôn nhân trong các truyền thống tôn giáo khác cũng có các yếu tố tích cực cho dù cũng không thiếu bóng tối.”[5]

1. Môi trường đa dạng tôn giáo tại Việt Nam

a/ Sự đa dạng tôn giáo tại Việt Nam

Đa nguyên tôn giáo chắc hẳn là một nét đặc trưng tại Việt Nam. Ngay từ thuở ban đầu, Việt Nam đã là ngôi nhà chung của nhiều dân tộc khác nhau cùng với những đặc tính văn hóa và tôn giáo của họ. Sự đa dạng về tôn giáo cũng đến từ việc tiếp nhận, dung hợp các tôn giáo đến từ nước ngoài. Ngoài ra, vì nhiều lý do khác nhau, nhiều người di dân mang theo văn hóa và tôn giáo của họ đến sinh sống tại các vùng miền khác nhau cũng góp phần đáng kể làm nên sự đa dạng, phong phú của bức tranh văn hóa và tôn giáo tại nhiều nơi của Việt Nam. Theo thống kê, Việt Nam hiện có 16 tôn giáo được nhà nước Việt Nam chính thức công nhận. Trong số này, người Công giáo chiếm khoảng 7% dân số Việt Nam. Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có một số lượng đông đảo người dân có niềm tin và thực hành theo các sinh hoạt tâm linh truyền thống/dân gian. 

b/ Sự Hiện Diện Gần Gũi của Các Tôn Giáo tại Việt Nam

Sự đa dạng, phong phú của bối cảnh tôn giáo tại Việt Nam cũng được thể hiện qua sự hiện diện gần gũi của các tôn giáo. Các học viện và cơ sở tôn giáo hiện diện rộng khắp tại nhiều nơi. Nơi các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội, việc các ngôi chùa Phật giáo, các nhà thờ Kitô giáo, những ngôi đền chùa, điện thờ các vị thần trong Tam giáo (Phật Giáo, Nho Giáo, Lão giáo) cùng hiện diện trên một tuyến đường hay khu vực là điều khá phổ biến. Hơn nữa, việc các tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống bên cạnh nhau như những người hàng xóm láng giềng trong các mối tương quan xã hội hằng ngày vốn là chuyện thường tình tại Việt Nam. Sự đa dạng về tôn giáo còn được nhận biết nơi nhiều gia đình liên tôn khi các thành viên của cùng một gia đình có thể theo đuổi và thực hành các tôn giáo khác nhau. Trong bối cảnh đa nguyên tôn giáo như vậy, việc liên hệ và tương tác với các tôn giáo khác là điều không thể tránh khỏi. Tại Việt Nam, “những cuộc gặp gỡ tất yếu như thế chiếm một phần đáng kể trong đời sống của Giáo hội ngày nay. Những cuộc gặp gỡ này tạo ra một Kairos, tức là một không gian và thời gian thuận lợi cho việc đối thoại liên tôn. Điều này mang đến những cơ hội quý giá cho việc học hỏi và chia sẻ những điều tốt đẹp nơi các truyền thống tôn giáo khác nhau.”[6]

2. Quan điểm của Giáo hội đối với các tôn giáo khác

a/ Sự Nhìn Nhận của Giáo Hội Đối Với Các Tôn Giáo Khác

Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội đã thể hiện một nhãn quan cởi mở, tích cực đối với thế giới hiện đại với sự đa dạng của các tôn giáo, văn hóa và ý thức hệ. Dưới tác động của toàn cầu hóa và những công nghệ hiện đại, thế giới ngày nay đang được thu gọn thành “một ngôi làng địa cầu” trong đó nhiều người thuộc các nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo đang sống bên cạnh nhau. “Cụm từ ‘ngôi làng địa cầu’ không chỉ bộc lộ bản chất và phạm vi của thế giới nhưng quan trọng hơn nhằm nhấn mạnh đến nhu cầu thiết yếu cho việc tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa những con người khác biệt.”[7] Nhận thức được điều này, Công đồng Vatican II khuyến khích một thái độ tích cực đối với các tôn giáo khác. Nhiều văn kiện của Công đồng đã nhìn nhận những giá trị tích cực nơi nhiều tôn giáo khác nhau.

Với ý hướng cải cách của Công đồng Vatican II, Giáo hội dạy chúng ta rằng “các hạt giống của Ngôi Lời”,[8] “những tia sáng của chân lý”[9] cũng có thể được tìm thấy nơi các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác. Hơn nữa, với Công đồng Vatican II, Giáo hội không chỉ nhận biết các giá trị tốt đẹp của các tôn giáo khác nhưng còn trân quý và tìm cách phát huy những giá trị này thông qua đường hướng đối thoại và cộng tác với các tôn giáo khác. Giáo hội mời gọi các Kitô hữu dấn thân thi hành sứ vụ cách phù hợp và hiệu quả trong mối tương quan với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác:

Để có thể làm chứng cho Chúa Kitô cách hữu hiệu, các Kitô hữu phải tìm đến mọi người chung quanh với thái độ tôn trọng và yêu thương, phải ý thức về tư cách là thành viên của cộng đồng đang chung sống, tham gia đời sống văn hoá, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động nhân văn; phải thân thiết với các truyền thống dân tộc và tôn giáo; hãy khám phá với niềm vui và trân trọng những hạt mầm của Lời Chúa đang tiềm ẩn trong đó; đồng thời cũng phải quan tâm đến những chuyển biến sâu xa đang diễn ra giữa các dân tộc, hãy nỗ lực giúp cho con người thời nay đừng vì quá chú tâm đến khoa học và kỹ thuật của thế giới hiện đại mà xa rời những thực tại tâm linh, nhưng biết khao khát mãnh liệt hơn nữa để đạt đến chân lý và tình thương như Chúa đã mặc khải.[10]

Với Tuyên ngôn Nostra Aetate, Giáo hội thúc đẩy tất cả Kitô hữu dấn thân trong việc đối thoại liên tôn như một đường hướng phù hợp để theo đuổi sự hiểu biết lẫn nhau, cùng chung sống trong hòa bình, và cùng nhau phát huy các giá trị Nước Trời. Do đó, “Giáo hội khuyến khích con cái mình luôn biết nhìn nhận, giữ gìn và làm tăng triển những giá trị tâm linh, luân lý cũng như các giá trị xã hội-văn hoá nơi những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác với thái độ thận trọng và bác ái, trong khi vẫn nêu cao chứng tá của niềm tin và đời sống Kitô hữu.”[11]

Do đó, Giáo hội nhìn nhận việc đối thoại liên tôn là một đường hướng quan trọng và cần thiết để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng trong nỗ lực chung nhằm theo đuổi điều chân, thiện, mỹ trong cuộc hành trình hướng về Vương quốc Thiên Chúa. Bên cạnh đó, đối thoại liên tôn là rất cần thiết để “xây dựng sự hiệp nhất, phục vụ cho việc hòa giải, thúc đẩy tình liên đới, xóa bỏ các định kiến và ươm mầm tin yêu giữa các tín hữu của các tôn giáo khác nhau.”[12] Do đó, “mỗi tín hữu và cộng đoàn Kitô hữu đều được mời gọi thực hành việc đối thoại, tuy không ở cùng một mức độ và cách thức.”[13]

b/ Đường hướng Đối Thoại Liên Tôn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Quan điểm và giáo huấn của Giáo hội Việt Nam về đối thoại liên tôn được thể hiện qua các Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Những Thư chung này cho thấy sự nhận thức ngày càng rõ nét của Giáo hội Việt Nam trong việc cởi mở với các tôn giáo khác và khuyến khích các Kitô hữu theo đuổi việc đối thoại liên tôn như một phương thế phù hợp để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Trong bối cảnh tôn giáo và xã hội Việt Nam, đối thoại bằng đời sống và hành động vẫn luôn là cách thức thông dụng và quen thuộc nhất. Hai hình thức đối thoại liên tôn này đã được khuyến khích trong Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1998 như sau:

Công đồng Vatican II dạy rằng: trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo có tiềm ẩn hạt giống Lời Chúa và ánh sáng chân lý. Vậy khi làm chứng tá cho đức tin Kitô giáo, chúng ta hãy tôn trọng các giá trị tinh thần và đạo đức của các tôn giáo bạn. Các thành phần Dân Chúa hãy đi vào con đường đối thoại và hợp tác với các tín đồ các tôn giáo hầu góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, huynh đệ hơn.[14]

Đức Tổng Giám Mục Stephanô Nguyễn Như Thể nhấn mạnh rằng người Công giáo cần chủ động đối thoại trong tinh thần khiêm tốn, tôn trọng và trân nhận những giá trị tích cực nơi các tôn giáo khác.[15] Thật vậy, chính thông qua việc đối thoại mà Tin Mừng có thể được loan báo và chia sẻ. Chính qua việc đối thoại và cộng tác mà các giá trị của Tin Mừng có thể được phát huy, lan tỏa trong đời sống của các Kitô hữu và các tín đồ của các tôn giáo khác.

Các Đức Giám mục Việt Nam tiếp tục khuyến khích tất cả Kitô hữu thực hành đối thoại liên tôn để nhận biết sự hoạt động phong phú khôn lường của Chúa Thánh Thần và tìm thấy những giá trị tốt đẹp nơi các tôn giáo khác vốn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chính các Kitô hữu. Thư chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010 nêu rõ: “Tại Việt Nam, chúng ta nhận thấy đức bác ái của đạo Công giáo đã gặp gỡ lòng từ bi của Phật giáo, cảm thức tâm linh của Đạo giáo, triết lý xã hội của Khổng giáo và lòng mộ đạo bẩm sinh của người dân Việt: luôn tôn kính Trời, thực hành Đạo Hiếu, bày tỏ lòng biết ơn đối với các đấng sinh thành cũng như đối với các bậc anh hùng dân tộc...”[16] Với Thư chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2011, Hội đồng Giám mục Việt Nam nêu rõ: “Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo hội cần đối thoại với các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ.”[17] Các Đức Giám mục Việt Nam tin rằng “Cuộc đối thoại với các tôn giáo sẽ giúp Giáo hội tại Việt Nam xác tín hơn nữa vào tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang dẫn dắt mọi người tới Chân Lý toàn vẹn (x. Ga 16,13)”.[18]

3. Các Hình thức đối thoại liên tôn

Thông qua văn kiện quan trọng của Hội Đồng Tòa Thánh Đối Thoại Liên Tôn, “Đối Thoại Và Loan Truyền”, Giáo hội trình bày bốn hình thức căn bản của đối thoại liên tôn: đối thoại bằng đời sống, đối thoại bằng hành động, đối thoại bằng việc trao đổi thần học, đối thoại về kinh nghiệm tôn giáo.[19] Bốn hình thức đối thoại này đều có những đặc điểm riêng. Việc áp dụng những hình thức đối thoại này phụ thuộc vào từng bối cảnh và khả năng của người đối thoại.

a/ Đối Thoại Bằng Đời Sống

Việc đối thoại ở đây không được hiểu theo kiểu bàn luận các vấn đề và giải quyết các xung đột nhưng là một cung cách sống cùng nhau, chú trọng đến việc “chia sẻ cuộc sống” trong bối cảnh của cuộc sống hằng ngày. Đây là một cuộc đối thoại “nơi mà những tín đồ của các tôn giáo khác nhau cố gắng sống trong một tinh thần cởi mở và thân tình, chia sẻ với nhau những niềm vui nỗi buồn hay những mối bận tâm, thách thức trong đời sống.”[20]

Đây là hình thức cơ bản nhưng rất quan trọng của việc đối thoại khi mà mọi Kitô hữu đều được mời gọi dấn thân thực hành trong môi trường sống của mình. Sống tốt với người khác, thậm chí là với những người thuộc các tôn giáo khác, chắc hẳn là cách thức đầy hiệu quả để làm chứng cho Chúa, để trình bày cách sống động sứ điệp tình thương của Chúa cho mọi người. Giáo hội tin rằng việc làm chứng tá qua một đời sống tốt lành là sứ vụ quan trọng nhất và là cách rao giảng Tin Mừng thuyết phục nhất. Thật vậy, Giáo hội không ngừng xác quyết rằng “con người ngày nay sẵn sàng lắng nghe chứng nhân hơn là thầy dạy,”[21] tin tưởng vào kinh nghiệm thực tế hơn là lời giảng thuyết, quan tâm đến đời sống và hành động hơn là lý thuyết suông. Hơn nữa, qua việc vượt thắng những nghi ngại để khiêm tốn gặp gỡ và đồng hành cùng những người khác đạo, các Kitô hữu để cho mình có cơ hội đi vào thế giới của người khác để khám phá ra cách thức Thiên Chúa đang hoạt động trong đời sống của họ.

b/ Đối Thoại Bằng Hành Động

Đối thoại bằng hành động được thực hiện khi “những Kitô hữu và những người khác đạo cùng nhau cộng tác và hành động cho sự phát triển và giải phóng con người cách toàn diện.”[22] Trong thực tế, có rất nhiều vấn đề về chính trị, văn hóa, xã hội và nhân sinh vốn rất cần đến sự phối hợp, cộng tác của tất cả mọi người. “Các Giáo hội địa phương, là chứng tá của Đức Giêsu Kitô, được mời gọi để dấn thân vào lãnh vực này một cách không vị lợi và không thiên kiến. Các Giáo hội ấy cần cổ động cho nhân quyền, nêu lên những yêu sách của công lý và tố giác những bất công, không phải chỉ khi các tín đồ của mình là nạn nhân mà thôi, nhưng cho mọi người không kể đến lý lịch tôn giáo của kẻ đang chịu đựng những bất công ấy. Mọi người cũng cần phải liên kết với nhau để cố gắng giải quyết những vấn đề trầm trọng mà xã hội và thế giới phải đương đầu, và để thúc đẩy việc giáo dục lương tâm hướng đến công lý và hoà bình.”[23]

Qua việc cùng chung tay phục vụ công ích, các Kitô hữu có thể thêm phần hiểu biết về những thành viên của các tôn giáo khác và chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc trao đổi sâu xa hơn.[24] Những chương trình và dự án cho việc cộng tác phối hợp có thể tạo ra môi trường tin cậy lẫn nhau và loại bỏ những nguyên nhân gây chia rẽ. Thông qua việc đối thoại bằng hành động, các tín đồ của các tôn giáo khác nhau có thể nhận ra rất nhiều những ý tưởng chung đầy tích cực và tốt lành góp phần gắn kết họ lại với nhau. Do đó, đối thoại bằng hành động có thể “thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tín hữu. Hình thức đối thoại này cũng thúc đẩy tình thân hữu giữa họ.”[25]

c/ Đối Thoại Qua Việc Trao Đổi Thần Học

Đối thoại qua việc trao đổi thần học là việc trao đổi và bàn luận về niềm tin và các thực hành tôn giáo giữa các chuyên viên hay các nhà đại diện các tôn giáo. Thông qua những cuộc họp mặt mang tính hệ thống và chính thống này, họ hy vọng mở rộng và đào sâu kiến thức về chính tôn giáo của mình và các tôn giáo khác nhằm tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau và trân quý những giá trị thiêng liêng của người khác.

“Chúng ta có thể hiểu về bản thân mình nhiều hơn khi đối chiếu, gặp gỡ người khác.”[26] Do đó, trong hình thức đối thoại này, thậm chí những sự khác biệt về thần học cũng cần phải được bàn luận để “các tín hữu có thể học hỏi từ những tôn giáo khác những gì còn thiếu sót trong cách hiểu và lối sống đức tin của mình, để chỉnh sửa những thiếu sót khiếm khuyết trong tôn giáo của mình, và để chia sẻ với người khác về những điểm nhấn và thực hành tôn giáo của mình...”[27] Antonio M. Pernia cho rằng việc đối thoại liên tôn mà các Kitô hữu thực hành nhất thiết phải là đối thoại ngôn sứ bởi lẽ “chúng ta không đối thoại từ một vị thế trung dung nhưng từ chính niềm tin và xác tín Kitô giáo của mình.”[28] Trong tinh thần tôn trọng và học hỏi, đối thoại phải tựa như một cuộc giao tiếp trao đổi hơn là một cuộc tranh cãi. Điều này đòi buộc mỗi người đối đàm phải chuẩn bị kĩ, trình bày rõ ràng và chú tâm lắng nghe Lời Chúa được tỏ lộ qua người khác. “Chỉ khi chúng ta thực sự hiểu và để cho mình được linh hứng từ cùng một Ngôi Lời Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể chia sẻ sự dồi dào phong phú nơi niềm tin của mình.”[29]

d/ Đối Thoại Qua Kinh Nghiệm Tôn Giáo

Đây là cuộc đối thoại của con tim qua việc trao đổi những kinh nghiệm tôn giáo với những ai đang tìm kiếm Chúa.[30] Đây là sự chia sẻ và đồng hành thiêng liêng giữa các tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Qua việc tích cực chia sẻ sự phong phú trong đời sống thiêng liêng với nhiều hình thức như cầu nguyện, suy niệm, thực hành tôn giáo, các tín hữu có thể trợ giúp lẫn nhau như những người đồng hành trong cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa.[31] Thật vậy, việc cùng đến với nhau để hiệp ý cầu nguyện là dịp thuận lợi để những Kitô hữu và các tín đồ của các tôn giáo khác cùng nhận biết và trân quý những giá trị thiêng liêng mà họ đang có và để đào sâu tình liên đới huynh đệ trong cùng một gia đình của Chúa.

4. Đối Thoại Liên Tôn Trong Đời Sống Gia Đình

Trong bốn hình thức đối thoại liên tôn kể trên, đối thoại bằng đời sống chắc hẳn là hình thức phù hợp và thuận lợi trong bối cảnh gia đình. Thật vậy, đối thoại trong bối cảnh đa dạng tôn giáo, nhất là trong các gia đình liên tôn giáo, phải được khuyến khích và thực hành giữa những người bình thường trong cuộc sống hằng ngày của họ. Do đó, đối thoại bằng đời sống cần phải được chú trọng và ưu tiên như là khía cạnh đối thoại căn bản nhất vì được thực hành bởi mọi Kitô hữu trong những cuộc gặp gỡ và liên hệ hằng ngày của họ với các tín đồ của các tôn giáo khác. Chính kinh nghiệm về sự hiệp thông và chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống thường nhật của gia đình, và tạo nên phần thiết yếu và căn bản mà gia đình đóng góp được cho xã hội.[32]

a/ Gia đình liên tôn

Theo linh mục Phanxicô Xaviê Bảo Lộc, Trưởng ban Đối thoại liên tôn của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, việc đối thoại liên tôn trong gia đình rất quan trọng vì hôn nhân liên tôn chiếm tỉ lệ cao. Theo thống kê, mỗi năm, trong số khoảng 3000 đôi hôn phối trong Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, có đến gần 1000 đôi hôn nhân khác đạo giữa một người Công giáo và một người không được rửa tội, và hơn 1000 hôn phối giữa một người Công giáo và một người tân tòng.

Mặc dù hôn nhân liên tôn có thể mang đến những thách đố do sự khác biệt về niềm tin tôn giáo, Giáo hội vẫn duy trì một cái nhìn tích cực đối với hình thức hôn nhân này. Theo nhận định của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu,

Các gia đình liên tôn và đại kết cũng thực sự chia sẻ những giá trị của đời sống giao ước, sự hiệp thông, tình liên đới, sự bổ túc và hỗ tương trong việc trao hiến cho nhau. Vì lý do này, người phối ngẫu Kitô giáo mang lại cho giao ước hôn nhân và gia đình sự phong phú đặc thù nơi đức tin của mình trong khi cùng nhau tăng triển và tiến bước cùng người bạn đời và các con cháu của họ trên cuộc hành trình hướng về vương quốc Thiên Chúa.[33]

Thật vậy, “sự hiệp nhất của người vợ và người chồng thông dự vào sự độc nhất của Thiên Chúa Đấng dựng nên họ… Một cuộc hôn nhân như thế cho phép người phối ngẫu Công giáo theo một nghĩa nào đó giúp ‘thánh hóa’ và ‘thánh hiến’ người bạn đời khác đạo và con cái của họ.”[34] “Hôn nhân, dựa trên một tình yêu đơn nhất và mãi mãi, trở thành một biểu tượng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và ngược lại. Cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại.”[35] Hơn nữa, hôn nhân liên tôn còn được xem là môi trường thuận lợi cho việc đồng hành liên tôn nơi đời sống gia đình. Cuộc hôn nhân liên tôn không chỉ “tạo ra hình thức cơ bản của mối hiệp thông liên vị, cộng đoàn cơ bản của tình yêu,”[36] nhưng còn mang lại một môi trường tương quan tôn giáo giữa người chồng và người vợ như là những người đại diện cho tôn giáo của mình. Trong nhận thức này, các cuộc hôn nhân liên tôn là môi sinh của việc đối thoại liên tôn. Các gia đình liên tôn là trường học đầu tiên cho việc thực hành đối thoại liên tôn thông qua việc làm chứng cho niềm tin cũng như bằng việc chia sẻ đồng trách nhiệm trong việc chăm lo cho gia đình, nuôi dưỡng và giáo dục con cái…

Bên cạnh đó, trong môi trường văn hóa của Việt Nam, hôn nhân liên tôn không chỉ liên quan đến hai cá nhân vợ chồng nhưng còn hai bên gia đình, dòng họ, gia tộc. Do đó, hôn nhân liên tôn mang đến những dịp thuận lợi cho việc đối thoại, hiệp thông, sống chứng tá đức tin trước các thành viên khác đạo của gia đình và gia tộc. Trong các gia đình liên tôn như thế, “người phối ngẫu Công giáo phải thực sự là một người môn đệ chuyên đối thoại trong lời nói và việc làm.”[37] Với cuộc sống tốt lành đầy tình yêu thương, tôn trọng và trung tín, người chồng hay người vợ Công giáo có thể giúp người bạn đời của mình nhận biết và trân quý những điều tốt lành và giá trị cao quý nơi tôn giáo của mình. Sự cộng tác, chia sẻ đồng trách nhiệm và đối thoại là rất cần thiết cho “việc trải nghiệm, tỏ bày và nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.”[38]

Hơn nữa, việc đồng hành chia sẻ trong các gia đình liên tôn nên diễn ra trong sự hiểu biết và tôn trọng đối với các giá trị và thực hành tôn giáo của mỗi thành viên. Thật vậy, để yêu thương và duy trì hạnh phúc trong các gia đình liên tôn, cần có những nỗ lực nơi mỗi người phối ngẫu để hiểu biết và cảm thông với đời sống tôn giáo của người bạn đời. Điều này có nghĩa là nơi các gia đình liên tôn, không chỉ người ngoài Kitô giáo được khuyến khích học biết về Kitô giáo nhưng ngay cả những người vợ/chồng Kitô hữu cũng cần chủ động học hỏi về tôn giáo của người bạn đời để có thể sống với nhau trong sự yêu thương, tôn trọng và cảm thông ngay cả trong những khác biệt về niềm tin.

b/ Đạo Hiếu

Trong các mối liên hệ gia đình của người Châu Á nói chung và của người Việt nói riêng, việc hiếu kính luôn được nhìn nhận là nhân đức hàng đầu và là bổn phận quan trọng nhất của con cái cháu chắt đối với ông bà cha mẹ đến nỗi được xem gần như một loại hình tôn giáo, một lối sống đạo, tức đạo hiếu. Theo truyền thống của người Việt, những người con trong gia đình được dạy phải biết trân quý và biết ơn đối với công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Đây là món nợ ơn nghĩa mà người con sẽ chẳng bao giờ có thể đền đáp cho cân xứng. Điều này được diễn tả trong nhiều câu ca dao, tục ngữ của Việt Nam như

“Công cha như núi Thái Sơn,

nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

“Dạy con, con nhớ lấy lời.

Trọng cha, kính mẹ suốt đời chớ quên”

Công cha nghĩa mẹ cao dày,

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

Trưởng thành con phải biết thờ song thân.

Do đó, cách tốt nhất để người con thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ của mình là vâng lời, kính trọng cha mẹ. “Một người con ngoan hiền nhất định phải cố gắng làm vui lòng cha mẹ, phải chăm sóc đỡ đần cha mẹ trong những nỗi ưu tư nhọc nhằn, phải thỏa đáp ước nguyện lớn nhỏ của các bậc sinh thành.”[39]

Là trọng tâm trong hệ tư tưởng và luân lý của người Việt Nam, đạo hiếu vẫn luôn được ca ngợi và chú trọng trong đời sống và giáo huấn của nhiều tôn giáo tại Việt Nam. Theo đó, tín ngưỡng dân gian Việt Nam luôn tập chú vào vấn đề đạo hiếu: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu.” Cũng vậy, trong nhãn quan của Nho giáo và Lão giáo, đạo hiếu được xem là cội rễ của tất cả các nhân đức và là nguồn mạch của mọi lời dạy dỗ về luân thường đạo lý.[40] Phật giáo không ngần ngại khẳng định rằng đạo hiếu chính là nhân đức hàng đầu.[41] Đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài cũng xem đạo hiếu là bổn phận cốt yếu của đời người.[42]

Đối với Kitô giáo, đạo hiếu hay thảo kính cha mẹ luôn được chú trọng. Đây chính là điều răn thứ tư đòi buộc mọi người con phải “vâng lời cha mẹ trong mọi sự vì đó là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl 3,20). Chính Đức Giêsu đã nêu cao mẫu gương sống đạo hiếu khi Ngài luôn sống tròn chữ hiếu với Chúa Cha trên trời qua việc hằng luôn tuân phục Thánh ý Chúa Cha như lời xác nhận của Chúa Cha về Ngài: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” (Mt 3,17). Đức Giêsu cũng không quên chu toàn bổn phận đạo hiếu đối với song thân là Đức Maria và thánh Giuse như lời ghi nhận của Kinh Thánh: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,51-52). Từ trong nhận thức về tầm quan trọng và cao quý của đạo hiếu, thánh Phaolô đã không ngần ngại khuyên bảo những Kitô hữu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nêu rõ, “Qua tình yêu, sự kính trọng và vâng lời đối với cha mẹ, con cái mang lại phần đóng góp đặc biệt và không thể thay thế được của chúng cho việc xây dựng một gia đình thật sự nhân bản và Kitô giáo.”[43]

Có thể thấy “Đạo Hiếu” không của riêng ai hay của một tôn giáo nào, nhưng là của tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Theo đó, đạo hiếu trở thành điểm đồng quy, một nền tảng quan trọng cho việc đối thoại và đồng hành giữa các tôn giáo tại Việt Nam. “Nó như một quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, gieo vào cõi lòng con người, để dẫn dắt con người về với chân thiện mỹ hay để con người trở về với Đấng là Chân Lý vẹn toàn.”[44] Với những nét đẹp và ý nghĩa sâu sắc, đạo hiếu có thể được xem như một “hạt giống của Ngôi Lời”[45] được gieo vào trong các truyền thống văn hóa và tôn giáo Việt Nam. “Hạt giống” này cần được ươm mầm và triển nở bằng nhiều cách khác nhau. Giáo dục là điều rất quan trọng để giúp mọi người nhận ra nét đẹp của đạo hiếu và thúc đẩy mọi người thực hành truyền thống tốt đẹp này trong đời sống gia đình, kể cả trong các gia đình liên tôn. Thật là ý nghĩa và đáng quý khi giữ đạo hiếu trong đời sống thường ngày và trong nhiều sự kiện, biến cố của gia đình như trong các dịp lễ giỗ, kỉ niệm ngày cưới của cha mẹ, mừng thượng thọ ông bà.v.v. Những hình thức bày tỏ lòng hiếu thảo có thể thắt chặt và tăng cường mối dây hiệp thông yêu thương giữa các thành viên trong gia đình. Các tôn giáo khác nhau cũng có thể cùng cộng tác với nhau để cùng tổ chức và thúc đẩy các hoạt động tôn giáo đặc trưng thể hiện tinh thần đạo hiếu đối với các đấng bậc ông bà, cha mẹ.

c/ Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên

Kính nhớ ông bà tổ tiên là yếu tố cốt lõi trong việc thực hành đạo hiếu trong các truyền thống tôn giáo và văn hóa tại Việt Nam. Lòng hiếu kính của tín hữu không những chỉ đối với các vị còn sống mà còn phải được thể hiện cách chân thành với những vị đã qua đời (ông bà, cha mẹ, tổ tiên). Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt, con người là sự kết hợp của linh hồn và thể xác. Sau khi chết, thân xác sẽ bị tiêu tan trong khi linh hồn sẽ tiếp tục trường tồn trong một thế giới khác.[46] Nhiều người Việt Nam tin rằng linh hồn của tổ tiên, ông bà cha mẹ của họ vẫn hiện hữu và đồng hành với họ trọng cuộc sống hằng ngày. “Linh hồn tổ tiên được cho là vẫn có những phẩm tính của con người nhưng với một năng lực siêu nhiên. Theo nhận thức này, linh hồn tổ tiên có thể nhìn thấy, lắng nghe, cảm nhận và giao tiếp với người sống.”[47] Do đó, “các vị tổ tiên được con cháu tìm đến qua những lời kinh nguyện hay khấn xin để được ban phúc lành hay xua trừ xui rủi hay chứng giám trong các biến cố của gia đình.”[48] Theo đó, niềm tin vào sự bất tử của linh hồn và mối liên hệ mật thiết giữa các đấng bậc tổ tiên với những người đang sống chính là nền tảng cho bổn phận phải kính nhớ và biết ơn đối với các linh hồn ông bà tổ tiên. Trong niềm tin này, người Việt được dạy rằng “sự phồn thịnh, giàu sang phú quý và hạnh phúc ấm no mà mình đang được hưởng chính là do công đức tích tụ của ông bà tổ tiên qua nhiều thế hệ sống ngay lành phúc đức mà có.”[49]

Trước đây, việc đối thoại liên quan đến đạo hiếu tại Việt Nam đã gặp nhiều trở ngại do những hiểu lầm và lên án của Giáo hội đối với việc thực hành nghi thức thờ cúng ông bà tổ tiên. Do lo ngại vấn đề mê tín dị đoan và thờ ngẫu tượng, nhiều người Công giáo Việt Nam trước đây đã bị cấm thực hành nghi lễ kính nhớ tổ tiên vốn gây ra nhiều tranh cãi và nghi ngại. “Mãi đến năm 1964, Hội đồng Giám mục Việt Nam lần đầu tiên cho phép thực hành cách thận trọng một số hình thức kính nhớ ông bà tổ tiên, trong khi gạt bỏ những yếu tố còn mang tính mê tín dị đoan.”[50]

Sau một giai đoạn dài tranh cãi về nghi lễ này, Giáo hội ngày nay đã nhìn nhận và trân quý những giá trị quý giá của truyền thống tốt đẹp này. Theo đó, Giáo hội Việt Nam đã nỗ lực để vượt qua những hiểu lầm, nghi ngại trong quá khứ qua việc tích cực hội nhập văn hóa và dấn thân đối thoại với các tôn giáo khác liên quan đến việc thực hành kính nhớ tổ tiên. Giáo hội tin rằng “ông bà tổ tiên và những thánh nhân đã khuất rất đáng được tôn kính, trân trọng, tưởng nhớ và yêu mến vì họ đang ở gần bên Chúa trên Thiên Đàng. Qua các ngài và cùng với các ngài, những người con cháu đang sống có thể tôn thờ và tán dương Thiên Chúa.”[51] Do vậy, bên cạnh việc phân định để chỉnh sửa những yếu tố sai lạc trong việc thực hành này, Giáo hội khuyến khích các Kitô hữu sống tốt tinh thần đạo hiếu và thực hành việc kính nhớ tổ tiên theo những nét văn hóa và truyền thống địa phương của họ.

Cách cụ thể, vào ngày 14 tháng 11 năm 1974, với quyết định chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam, người Công giáo Việt Nam được phép thiết đặt bàn thờ tổ tiên, thắp nhang, thắp đèn, kính bái trước bàn thờ tổ tiên. Vào các dịp lễ giỗ, họ có thể thể hiện nghi thức tưởng nhớ người quá cố theo các phong tục địa phương. Trong các nghi thức hôn nhân, cô dâu và chú rể được phép cử hành nghi lễ kính nhớ tổ tiên trong đó người con dâu hay con rể mới này sẽ được dẫn đến trước bàn thờ gia tiên và được giới thiệu cho ông bà tổ tiên của gia tộc. Trong các nghi thức tang lễ, họ được phép bái kính để thể hiện tấm lòng thành kính đối với người đã khuất. Họ cũng được phép tham dự các nghi lễ kính nhớ và tỏ lòng biết ơn đối với các vị anh hùng dân tộc hay những vị có công trạng đối với quê hương, xứ sở. Quyết nghị về Lễ Nghi Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên nói rằng: “Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động.”

Bên cạnh đó, việc cầu nguyện cách minh nhiên cho ông bà tổ tiên là một nỗ lực hội nhập việc kính nhớ tổ tiên vào trong phụng vụ với những dấu ấn thần học đậm nét. Một cách cụ thể, trong mọi Thánh Lễ, các linh mục đại diện cho mọi người cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã khuất. Lịch Phụng vụ Công giáo cũng dành những ngày đặc biệt như ngày 2 tháng 11, suốt tháng 11, ngày mùng 2 Tết để tưởng nhớ và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Đây là những bước tiến lớn của Giáo hội trong tiến trình hội nhập văn hóa và đối thoại vốn cần phải được phát huy hơn nữa. Cũng vậy, các gia đình Công giáo Việt Nam nên có bàn thờ gia tiên nhằm giúp ích cho việc thực hành bổn phận đạo hiếu đối với ông bà tổ tiên.

Việc đối thoại liên tôn liên quan đến việc thực hành này cũng gợi mở cho các tôn giáo khác nhau thể hiện sự hiệp thông và chia sẻ với nhau trong một số dịp đặc biệt để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên như ngày lễ các linh hồn của Công giáo, ngày lễ Vu Lan của Phật giáo, ngày lễ giỗ của các vị anh hùng dân tộc, hay nghi lễ tưởng niệm các vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam, v.v. Thật ý nghĩa khi các tín hữu thuộc các tôn giáo khác nhau có thể cùng tham dự dịp lễ chung trong tinh thần liên đới huynh đệ. Ví dụ, Giỗ tổ Hùng Vương, tức ngày lễ của cả nước Việt Nam nhằm tưởng nhớ đến các vị tổ tiên nước Việt, có thể được xem là dịp thuận lợi cho việc đối thoại liên tôn. Các Kitô hữu có thể tham gia sự kiện này cùng với các tín đồ của các tôn giáo khác trong cùng một gia đình Việt Nam. Họ có thể cùng tham gia vào một cuộc hành hương chung để đến nơi thánh của các bậc tổ tiên. Cuộc hành hương này có thể mang đến cơ hội tốt cho người Kitô hữu và các các tín đồ của các tôn giáo khác nhằm thể hiện lòng tôn kính đối với các bậc tổ tiên của quốc gia dân tộc cũng như thắt chặt tình huynh đệ với nhau. Đây cũng là những dịp thuận lợi để người Kitô hữu gặp gỡ, đối thoại và đồng hành với những tín đồ của các tôn giáo khác trong việc duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của việc kính nhớ ông bà tổ tiên.

Kết luận

Gia đình không chỉ là tế bào của xã hội nhưng cũng là tế bào của Giáo hội, là một Giáo hội thu nhỏ vốn luôn cần được chú tâm chăm lo, phát triển. Như lời khẳng định của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình. Thế nên, thật trọng yếu và cấp bách, tất cả mọi người thiện chí đều phải hết sức mình để bảo vệ và thăng tiến các giá trị và các đòi hỏi của gia đình.”[52] Bên cạnh đó, gia đình cần trở nên một cộng đồng giúp thăng tiến đức tin và rao giảng Tin Mừng. Theo đó, “gia đình có nghĩa vụ tạo môi trường cho Tin Mừng được truyền đạt tới và từ đó Tin Mừng được lan toả ra.”[53] Điều này mời gọi mọi Kitô hữu trong từng bối cảnh gia đình của mình luôn cần ý thức dấn thân loan báo Tin Mừng cách phù hợp và hiệu quả qua chính lời rao giảng và chứng tá đời sống đức tin của mình.

Cách cụ thể, người Kitô hữu khi thi hành sứ mạng trong môi trường đa nguyên tôn giáo, đặc biệt trong bối cảnh của gia đình liên tôn, được mời gọi không chỉ loan báo Tin Mừng cho những thành viên khác đạo trong gia đình của mình nhưng còn cần để tâm khám phá và phát huy những giá trị của Nước Trời và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong khi tiếp cận với các truyền thống tôn giáo khác qua việc thực hành đối thoại liên tôn, nhất là đối thoại bằng đời sống. Trong những nỗ lực nhằm xây dựng các mối hiệp thông liên vị trong các gia đình liên tôn, đối thoại bằng đời sống phải được phát huy và củng cố qua những nỗ lực sống tốt mối tương quan với các thành viên trong gia đình. Đời sống gia đình, đặc biệt nơi các gia đình liên tôn, mang đến những cơ hội tốt cho việc đối thoại và làm chứng cho đức tin trước mặt những người thân và các thành viên của gia tộc. Do đó, người Kitô hữu chu toàn và sống tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong đó đạo hiếu và việc tôn kính ông bà tổ tiên cần được chú tâm thực hành như điểm đồng quy của nhiều tôn giáo khác nhau trong cuộc đối thoại liên tôn nơi bối cảnh gia đình.

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVNSố 147 (Tháng 5 & 6 năm 2025)


[1] Xem Vatican II, Sắc lệnh Truyền giáo Ad Gentes,số 2.

[2] Stephen B. Bevans và Roger P. Schroeder, Constants in Context: A Theology of Mission for Today (Quezon City: Claretian Publications, 2005), 2.

[3] Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi – Loan Báo Tin Mừng, số 3.

[4] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio – Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 55a.

[5] Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Của Tình Yêu, số 77.

[6] Edgar G. Javier, “Religions are Ways to the Sacred: An Invitation to the Religious-other,” Missio Inter Gentes 9, no. 1 (July 2023): 12-13.

[7] McLeod and Nguyễn Thị Diệu, Cultures and Customs of Vietnam (Westport, Connecticut: Greenwood Press, 2001), 11.

[8] Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo Ad Gentes (7/12/1965), AAS 57, no. 11.

[9] Vatican II, Tuyên ngôn về mối liên hệ của Giáo hội đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate (28/10/1965), AAS 57, no. 2.

[10] Vatican II, Ad Gentes, no. 11.

[11] Vatican II, Nostra Aetate, no. 2.

 

[13] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio – Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, số 57b.

[14] Hội đồng Giám mục Việt Nam, “Thư Chung 1998: Hướng Về Năm Thánh 2000,” số 13.

[15] Xem Nguyen Nhu The, “Grassroot exchange will lead to useful dialogue,” Asia Focus 18 (7/6/2002): 3.

[16] Xem Hội đồng Giám mục Việt Nam, “Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa: Cùng Nhau Bồi Đắp Nền Văn Minh Tình Thương và Sự Sống”, 2011, số 40.

[17] Ibid., số 39.

[18] Ibid., số 40.

[19] “Đối Thoại và Loan Truyền,” số 42.

[20] “Đối Thoại và Loan Truyền,” số 42.

[21] Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, số 41.

[22] “Đối Thoại và Loan Truyền,” số 42.

[23] “Đối Thoại và Loan Truyền,” số 44.

[24] Xem Gioan Phaolô II, Tông huấn về Đời Sống Thánh Hiến và Sứ vụ Vita Consecrata (25/03/1996), số 102.

[25] Leonardo N. Mercado, Inter-religious Explorations: The Challenges and Rewards of Inter-Religious Dialogue (Manila: Logos Publications, 2004), 35.

[26] Edgar G. Javier, Dialogue: Our Mission Today (Quezon City: Claretian Publications, 2006), 138.

[27] Peter C. Phan, The Joy of Religious Pluralism: A Personal Journey (Maryknoll, New York: Orbis Books, 2017), 166.

[28] Antonio M. Pernia, “Prophetic Dialogue and the Formation of ‘Persons of Dialogue’.” Missio Inter Gentes 2, no.1 (2016), 28.

[29] Samuel N. Agcaracar, “Mission as Prophetic Dialogue in the Light of the New Evangelization,” DIWA, Vol.37, nos.1 & 2 (May and November 2012): 68.

[30] Xem Mercado, Inter-religious Explorations, 48.

[31] Xem “Đối Thoại và Loan Truyền,” số 42.

[32] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio (22/11/1981), AAS 73, số 43.

[33] Vimal Tirimanna, “Hôn nhân liên tôn trong truyền thống Công Giáo,” trong FABC papers 118, 38.

[34] Patrick J. Ryan, Interfaith Marriage: A Concern for Jews, Christians and Muslims (New York: Fordham University, 2014), 11.

[35] Bênêđictô XVI, Thông điệp về Bác Ái Kitô Giáo Deus Caritas Est – Thiên Chúa là Tình Yêu (25/12/2005), AAS 97, số 11.

[36] Benezeri Kisembo, Laurenti Magesa and Aylward Shorter, African Christian Marriage (Nairobi, Kenya: Paulines Publications Africa, 2010), 221.

[37] Francisco Claver, “Interfaith Marriage in Pluralistic Societies,” in FABC Papers 118, 13.

[38] Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui của Tình Yêu, số 136.

[39] Neil L. Jamieson, Understanding Vietnam (California: University of California Press, 1993), 15.

[40] Xem Hsiao King, The Sacred Books of the East, Vol. 3, trans. James Legge (London: Clarendon Press, 1879), 494.

[41] Xem Guang Xing, “Filial Piety in Early Buddhism,” Journal of Buddhist Ethics 12 (2005): 82.

[42] Xem Nguyen Dang Huy, Văn Hóa Tâm Linh Nam Bộ, 84-85.

[43] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 21.

[44] Đinh Ngọc Lâm, “Đạo Hiếu trong Kitô Giáo”, xem tại: http://dongten.net/2011/11/23/dao-hieu-trong-kito-giao/ (truy cập ngày 18/02/2025)

[45] Vatican II, Ad Gentes, nos. 11 and 15.

[46] Xem Peter C. Phan, Christianity with an Asian Face: Asian American Theology in the Making (Maryknoll, New York: Orbis Books, 2003), 133-134.

[47] Alexander Jebadu, Far from Being Idolatrous: Ancestor Veneration (Nettetal, Germany: Steyler Verlag, 2010), 63.

[48] Ibid, 62.

[49] McLeod and Nguyen Thi Dieu, Culture and Customs of Vietnam, 137.

[50] Nguyen Nhu The, “Inculturation in the Context of the Veneration of Ancestors,” in The Asian Synod: Texts and Commentaries,Peter C. Phan, ed. (Maryknoll, New York: Orbis Books, 2002), 125.

[51] Jebadu, Far from Being Idolatrous, 149.

[52] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 86.

[53] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 52.

 
Lm. Giuse Nguyễn Duy Khương
06/09/2025

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây