Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
Ban Nghiên Huấn
THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 5/2025
Chủ đề:
ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN
BÀI I - CHỨC TƯ TẾ CHUNG CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN - Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Theo giáo lý của Giáo hội Công Giáo thì khi chịu phép rửa tội người được rửa tội cũng được xức dầu thánh để lãnh nhận ơn riêng của Chúa Thánh Thần, nhờ đó “trở thành một Kitô hữu”, nghĩa là được xức dầu, gia nhập vào Thân Thể Chúa Kitô là Đấng đã được xức dầu để làm tư tế, ngôn sứ và vương đế” (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1241).
1/ Sự khác biệt giữa chức tư tế chung và tư tế thừa tác
Chức Tư Tế Thừa Tác: Khi nói đến chức tư tế là nói đến Chức Linh Mục duy nhất của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê (Dt 5:10). Nghĩa là chỉ có Chúa Kitô là Thầy Cả hay Linh Mục Thượng Phẩm duy nhất đã dâng Hy Tế đền tội thay cho nhân loại một lần xưa trên thập giá. Khi đó, Người vừa là Bàn Thờ, vừa là Của Lễ và là Linh Mục. Chúa Kitô vẫn tiếp tục dâng Hy Tế này cách bí nhiệm qua tác vụ của Giáo hội, cụ thể qua thừa tác vụ của các giáo sĩ có chức thánh như Giám mục và Linh Mục, là những người nhờ Bí tích truyền chức thánh mà được phép nhân danh Chúa Kitô để “làm việc này mà nhớ đến Thầy” nghĩa là cử hành Thánh lễ Tạ Ơn hàng ngày ở khắp mọi nơi trong Giáo hội. Đây là chức tư tế của hàng giáo sĩ phẩm trật hay thừa tác xuất phát từ bí tích truyền chức thánh.
Chức tư tế chung của mọi Kitô hữu hay giáo dân là chức phát sinh từ bí tích Rửa tội và Thêm sức, chứ không phải từ bí tích truyền chức thánh. Vì thế, giáo dân không được phép cử hành các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Chỉ trừ trường hợp nguy tử, khi không tìm được các thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, Linh mục, Phó tế) giáo dân mới được phép cử hành bí tích Rửa tội mà thôi. Chức tư tế chung của người tín hữu chỉ cho phép mọi tín hữu được hiệp thông với các tư tế thừa tác trong việc dâng đời sống của mình với mọi vui buồn, sướng khổ để kết hợp với Hy tế của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa để xin ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác trong Thánh lễ.
2/ Sự bổ trợ giữa chức tư tế chung và tư tế thừa tác
Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn cả về yếu tính nghĩa là về bậc sống, chức tư tế thừa tác đòi hỏi người lãnh nhận phải hoàn toàn dâng hiến cuộc đời cho một mình Thiên Chúa trong đời sống độc thân thánh hiến, còn với chức tư tế chung thì giáo dân không bị đòi buộc sống độc thân như hàng giáo sĩ. Về yếu tính khác nhau vì phát sinh từ hai bí tích khác nhau, bí tích Truyền chức và bí tích Rửa tội. Tuy khác nhau nhưng cả hai bổ túc cho nhau, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh đóng vai trò Chúa Kitô cử hành Hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân Chúa. Phần tín hữu, nhờ chức tư tế chung, cộng tác dâng thánh lễ và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực (x. Hiến chế Lumen Gentium, số 10).
Sự liên đới giữa hai chức tư tế chung và thừa tác: Chức tư tế chung của người giáo dân hoàn toàn khác với chức tư tế thừa tác của hàng giáo sĩ. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có nghĩa là ai cao trọng hơn ai, mà chỉ nói lên sự khác nhau về chức năng để chu toàn các nhiệm vụ theo ơn gọi riêng của mỗi bậc sống mà thôi. Điều quan trọng là mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội, (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) tất cả đều được mời gọi nên thánh và có trách nhiệm loan báo Tin mừng Cứu độ của Chúa Kitô cho mọi người, mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vai trò khác nhau chỉ nói lên bổn phận khác nhau phải chu toàn mà thôi. Các bổn phận này cũng chỉ phát xuất từ một sứ mạng duy nhất là loan báo Tin mừng. Chức tư tế thừa tác trao ban chức tư tế chung cho tín hữu qua Bí tích Rửa tội và nuôi sống tín hữu qua các bí tích đặc biệt là Bí tích Giao hoà và Thánh Thể, và cùng nhau cầu nguyện cho thế giới, thánh hóa con người qua sự hy sinh phục vụ làm chứng cho Tin mừng Cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.
3/ Chức tư tế chung trao trách nhiệm thánh hóa thế giới cho giáo dân
Người giáo dân sống trong thế giới và giữa những thực tại trần gian với ơn gọi thánh hóa những gì trần tục. Chính ơn gọi này và cuộc sống của họ gắn liền với những thực tại trần thế, bối cảnh xã hội, không gian sống đã định hướng cho đời sống của giáo dân là nên thánh và làm cho mọi thực tại xã hội gắn liền với mình nên thánh. Một khi mang trên vai sứ vụ như thế, người giáo dân rõ ràng đã được thúc đẩy bởi lệnh sai đi vào giữa thế gian của Đức Kitô (x. Ga 17,18). Được sai đi như thế, một mặt người giáo dân phải sống theo Tin mừng của Đức Kitô, một mặt phải chấp nhận hòa mình vào dòng chảy của cuộc đời. Sống như thế, không phải là đi tìm một lối sống hai mặt trái nghịch nhau, nhưng luôn phải nỗ lực không ngừng để ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian là một thách đố lớn cho người Kitô hữu, vì những giá trị thế gian rất hấp dẫn, cần thiết cho cuộc sống nhân sinh nhưng chạy theo nó thì dễ làm cho người giáo dân từ chối con đường Tin mừng. Thách đố này đòi hỏi người giáo dân phải biết sống và chọn lựa những giá trị cuộc sống theo ánh sáng Tin mừng.
Kết luận
Trong tiến trình hiệp hành của Giáo hội hiện nay, tính hiệp hành biểu thị một lối sống và cách thực thi sứ vụ của Giáo hội, nó diễn tả bản chất của Giáo hội là Dân Thiên Chúa cùng nhau lữ hành và tập họp thành cộng đoàn, được Chúa Giêsu thiết lập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin mừng. Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội trong đó mọi thành phần giáo sĩ, giáo dân đều tham gia và đồng trách nhiệm. Tính hiệp hành mời gọi sự tham gia của tất cả mọi tín hữu tuỳ theo ơn gọi, bậc sống và sứ vụ của mỗi người. Sự tham gia dựa trên nền tảng là ơn gọi của Bí tích Thanh tẩy, ơn gọi làm cho người giáo dân thực sự trở nên con Thiên Chúa và là dân của Chúa, Dân Tư Tế, là thành phần làm nên Giáo hội, Nhiệm thể của Chúa Kitô. Giáo sĩ và giáo dân đều có chung một sứ mạng là hoạt động tích cực để mở mang “Nước Chúa” trên trần thế, hầu cho nhiều người được hưởng ơn Cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả đều có chung một khát vọng là được nên thánh như Cha trên trời là Đấng Chí Thánh, mặc dù khác nhau về địa vị và phương thức thi hành sứ mạng của mình trong Giáo hội. Sự khác biệt này không làm thương tổn đến địa vị của một thành phần nào trong Giáo hội, mà chỉ nói lên tính đa dạng của ơn gọi phục vụ mà thôi.
Hồi tâm
1) Anh chị em hiểu như thế nào về chức tư tế chung và thừa tác trong Giáo hội Công giáo?
2) Anh chị em đã và đang thi hành chức tư tế chung như thế nào?
3) Với chức tư tế chung anh chị em có nhận ra trách nhiệm phải thánh hóa bản thân và thế giới không?
----------
BÀI II - MỤC VỤ GIẢNG DẠY: NGƯỜI GIÁO DÂN THAM DỰ SỨ VỤ NGÔN SỨ - Lm. Antôn Hà Văn Minh
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người tín hữu đều tham dự vào ba chức vụ của Đức Kitô: Tiên tri, Tư tế và Vương đế. Vì thế, mỗi người tín hữu đều được mời gọi tham gia vào công việc giảng dạy của Giáo hội. Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Người giáo dân, do chính ơn gọi đặc biệt của mình, có bổn phận tìm kiếm vương quốc Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần thế, nghĩa là giữa tất cả và từng nghề nghiệp cũng như công việc trần thế, trong môi trường thông thường của cuộc sống gia đình và xã hội, tất cả những điều đó như thể dệt thành cuộc sống của họ. Trong khung cảnh đó, họ đã được Thiên Chúa mời gọi để nhờ việc chu toàn những bổn phận riêng của mình và được tinh thần Tin Mừng hướng dẫn, họ trở nên như nắm men góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong, và như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô, đặc biệt bằng chứng từ đời sống tỏa sáng đức tin, cậy, mến” (Hiến chế Lumen Gentium, số 31). Tuy nhiên “việc tông đồ không chỉ giới hạn trong việc làm chứng bằng đời sống; người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho những người chưa tin để đưa họ đến với đức tin, hoặc cho các tín hữu để giáo huấn, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn; thật vậy, ‘tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2 Cr 5,14), và trong lòng mọi người phải luôn vang vọng lời Thánh Tông Đồ: ‘Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng’ (1 Cr 9,16)” (Sắc lệnh về hoạt động Tông đồ giáo dân - Apostolicam Actuositatem, số 6) Như vậy, Công đồng nhắn nhủ người giáo dân thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình qua công việc rao giảng cách cụ thể theo đúng ơn gọi của mình. Quả thật, nhờ vào ân sủng của các bí tích như là lương thực lương thực nuôi dưỡng đời sống và việc tông đồ của các tín hữu, và là dấu chỉ tiên báo trời mới đất mới, thì cũng thế, giáo dân trở nên những người kiên cường loan báo niềm tin vào điều mình hy vọng, nếu họ không ngần ngại làm cho cuộc sống phù hợp với chính đức tin mà họ tuyên xưng. Việc loan báo Tin Mừng, nghĩa là công bố Đức Kitô bằng chứng từ đời sống và bằng lời rao giảng, mang một sắc thái đặc thù và có hiệu năng đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh thông thường của thế giới” (Hiến chế Lumen Gentium, số 35).
Tại buổi tiếp kiến chung hàng tuần vào ngày 27/5/2015, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã yêu cầu các cặp đôi đã đính hôn đọc cuốn tiểu thuyết The Betrothed (Người đính hôn) của Alessandro Manzoni. Đức giáo hoàng biết rằng những tác giả như thế, dù không phải là giám mục hay linh mục, lại có thể dạy Giáo hội nhiều điều về đức tin và cuộc sống của Kitô hữu như thế nào. Tác phẩm kinh điển của Manzoni mô tả câu chuyện tình yêu rắc rối của Renzo và Lucia. Như là một “kiệt tác về khế ước”, tác phẩm vẫn có những bài học quan trọng cho giới trẻ ngày nay về sự chịu đựng anh dũng mà những người theo Chúa Giêsu cần, nếu họ phải đối diện với đau khổ và ngay cả chống lại sự dữ lớn lao khi họ sống, hy vọng sự công chính của Thiên Chúa sẽ đến.[1]
1/ Người giáo dân dự phần vào nhiệm vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu
Có thể nói Công đồng Vatican II cho đến bây giờ là Công đồng duy nhất nói đến sứ mệnh của giáo dân, cách riêng như là những thầy dạy ngôn sứ[2]. Công đồng dạy: “Đức Kitô, vị Ngôn sứ cao cả đã dùng chứng từ đời sống và lời nói đầy quyền năng để công bố vương quốc của Chúa Cha, vẫn đang thực thi tác vụ ngôn sứ ấy cho đến lúc vinh quang Người được biểu lộ trọn vẹn, không những nhờ hàng giáo phẩm đang giảng dạy nhân danh Người và bằng quyền năng của Người, mà còn nhờ giáo dân, những kẻ Người đã đặt làm chứng nhân và đã trao ban cảm thức đức tin và cả ơn ngôn ngữ để sức mạnh của Tin Mừng được tỏa sáng trong đời sống thường ngày, nơi gia đình và ngoài xã hội” (Hiến chế Lumen Gentium, số 35). Đặc biệt trong đời sống gia đình, cha mẹ thi hành chức vụ ngôn sứ qua việc thông truyền đức tin cho con cái. Thật vậy “gia đình như là Giáo hội tại gia, nhờ lời dạy dỗ và gương lành, cha mẹ hãy là những người rao giảng đức tin đầu tiên cho con cái, và phải giúp phát huy ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt chăm sóc cho ơn gọi hướng tới thánh chức” (Hiến chế Lumen Gentium, số 11).Trong bài giảng ngày 12/01/2015 Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến vai trò ngôn sứ của các bậc làm cha mẹ: “Hãy dạy con cái của ông bà rằng chúng nó không thể là một Kitô hữu bên ngoài Giáo hội; chúng nó không thể theo Chúa Giêsu Kitô nếu không có Giáo hội, vì Giáo hội là mẹ [của chúng ta] và khiến chúng ta lớn lên trong tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô”[3].
Trong Tông huấn người Tín hữu Giáo dân, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khuyến dụ “chính giáo dân, vì đã ý thức rõ ràng hơn về các công việc thuộc về họ trong cộng đoàn phụng vụ hoặc trong việc chuẩn bị cộng đoàn này, nên rất sẵn sàng cho họ tham gia vào công việc cử hành liên quan đến phụng vụ, vì đó là một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn, chứ không của riêng hàng giáo sĩ mà thôi. Vì thế, hoàn toàn hợp lý khi những hoạt động không thuộc riêng các thừa tác viên có chức thánh lại được các giáo dân thi hành. Một khi có được sự tham dự hữu hiệu của giáo dân vào trong hoạt động phụng vụ, thì đương nhiên ta cũng chấp nhận sự tham gia của họ vào việc loan báo Lời Chúa và công tác mục vụ”[4]( Tông huấn Người tín Hữu Giáo dân, số 23), và theo Giáo luật số 230 §3: “Nơi nào nhu cầu Giáo hội đòi hỏi, và thiếu thừa tác viên thánh, thì các giáo dân, dù không cóc tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số công việc: tỉ như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa buổi cầu nguyện, ban phép Thánh tẩy, cho rước lễ, theo các quy tắc luật định”.
Tuy nhiên, đâu là thẩm quyền của Giáo dân thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, vì giáo dân là thành phần không có chức thánh? Công đồng Vatican II trong hiến chế Lumen Gentium khẳng định rằng người giáo dân tuy “bình đẳng về phẩm giá và về hoạt động chung của mọi tín hữu trong việc xây dựng thân mình Đức Kitô” (Hiến chế Lumen Gentium, số 32) nhưng không thẩm quyền giảng dạy như “những người đã lãnh nhận thừa tác vụ thánh, những kẻ nhận quyền từ Đức Kitô để coi sóc gia đình Thiên Chúa qua việc giảng dạy, thánh hoá, cai quản, giúp mọi người chu toàn giới luật mới của đức ái” (Hiến chế Lumen Gentium, số 32).
Trong vai trò ngôn sứ, giảng dạy của giáo dân, Công đồng Vatican II thừa nhận rằng các tín hữu không có chức thánh được Chúa Kitô thiết lập như “dụng cụ sống động”[5], tham gia vào việc phúc âm hoá vì vương quốc của Người (Hiến chế Lumen Gentium, số 33). Theo một nghĩa thực tế nào đó, giáo dân cũng nhân danh Đức Kitô giảng dạy, hưởng quyền bính của Đức Kitô, và đại diện cho chính Đức Kitô. Đức Phanxicô đã minh định: Giáo dân rõ ràng là thành phần đại đa số của Dân Chúa. Thành phần thiểu số - các thừa tác viên có chức thánh - là để phục vụ giáo dân. Ngày càng có một sự ý thức nhiều hơn về căn tính và sứ mạng của giáo dân trong Hội thánh. Chúng ta có thể cậy dựa vào nhiều giáo dân, tuy hầu như vẫn chưa đủ, là những người có một ý thức cộng đoàn sâu xa và một sự trung thành lớn lao đối với các công việc bác ái, dạy giáo lý và cổ vũ đức tin. Nhưng đồng thời, không phải ở mọi nơi đều có một sự ý thức rõ ràng về trách nhiệm này của giáo dân, ăn rễ sâu trong Phép Rửa tội và Thêm sức của họ như thế[6], điều đó được hiểu người giáo dân thi hành chức năng ngôn sứ của mình theo cách thức của họ, có nghĩa họ thi hành sứ mệnh của toàn thể dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình (x. LG 31)
2/ Sứ vụ ngôn sứ của người Giáo dân được cụ thể hóa trong vai trò giáo lý viên
Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, Công đồng Vatican II đã khẳng định: Trong Giáo hội có nhiều thừa tác vụ khác nhau, nhưng đều thuộc về một sứ mệnh duy nhất… Phần các giáo dân, vì được tham dự thực sự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, nên cũng có phần việc của mình trong sứ mệnh của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội và trong thế giới, Giáo dân thực thi các hoạt động tông đồ để rao giảng Tin Mừng và thánh hóa con người, để làm thấm nhuần và hoàn thiện hoá trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm, sao cho hành động của họ trong trần thế thực sự trở nên chứng từ về Đức Kitô và mang lại ơn cứu rỗi cho con người”[7] Một trong những phận vụ người giáo dân dự phần vào cách rõ nét trong việc cụ thể hóa sứ vụ ngôn sứ của mình đó là Giáo lý viên, và đó được gọi là một ơn gọi nảy sinh từ ơn gọi chung của người giáo dân, một ơn gọi có hàm chứa ân sủng đặc biệt trong việc phục vụ cho sứ mệnh của Giáo hội qua việc dạy giáo lý và loan báo Tin mừng. “Ơn gọi giáo lý viên không những bắt nguồn từ bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần hay một “đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận” và được Giám mục minh nhiên uỷ nhiệm”[8].
Nhận thấy tầm quan trọng của ơn gọi Giáo lý viên, ngày 11/5/2021, Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông thư dưới dạng Tự sắc Antiquum ministerium - Thừa tác vụ cổ kính - thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên. Trong tự sắc, Đức Thánh cha đã nhấn mạnh: “Lịch sử của việc phúc âm hóa suốt hai thiên niên kỷ qua cho thấy rõ sự hữu hiệu của sứ vụ giáo lý viên … Chúng ta không thể quên vô số giáo dân nam nữ tham gia trực tiếp vào sứ vụ rao giảng Tin mừng qua việc dạy giáo lý. Họ là những người nam và nữ có đức tin sâu xa, những chứng nhân đích thực của sự thánh thiện, trong một số trường hợp cũng là những vị sáng lập các Giáo hội và cuối cùng đã chết như các vị tử đạo. Ngày nay cũng vậy, nhiều giáo lý viên có khả năng và tận tụy là những người lãnh đạo cộng đoàn trong những miền khác nhau của thế giới và thực hiện một sứ vụ vô giá là truyền thụ và làm tăng trưởng đức tin. Một dòng dõi thật dài các chân phước, các thánh và các vị tử đạo từng là giáo lý viên đã thăng tiến vượt bực sứ mạng của Giáo hội và đáng được công nhận, vì họ là nguồn phong phú không chỉ cho việc dạy giáo lý, mà còn cho toàn bộ lịch sử linh đạo Kitô giáo”[9].
Khi nhận định như vậy, Đức thánh cha đã chỉ ra phận vụ Giáo lý viên trong việc phục vụ Giáo hội: “Các giáo lý viên được kêu gọi trước hết là chuyên viên trong mục vụ truyền đạt đức tin, được khai triển qua những giai đoạn khác nhau, từ việc loan báo tiên khởi lời rao giảng Tin mừng đầu tiên (kerygma) đến việc hướng dẫn đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô và chuẩn bị cho các Bí tích khai tâm Kitô giáo, rồi đến việc huấn luyện thường xuyên vốn có thể cho phép mỗi người giải thích niềm hy vọng trong lòng họ (x. 1 Pr 3,15). Đồng thời, mỗi giáo lý viên phải là một nhân chứng của đức tin, một thầy dạy và một người khai dẫn vào mầu nhiệm (mystagogue), một người đồng hành và một nhà giáo dục, người giảng dạy nhân danh Giáo hội. Chỉ nhờ cầu nguyện, học hỏi và trực tiếp tham dự vào đời sống cộng đoàn, họ mới có thể lớn lên trong căn tính này cũng như trong sự toàn vẹn và trách nhiệm bao hàm trong căn tính ấy”[10].
Vì ơn gọi Giáo lý viên mang tính chuyên biệt, nên các họ cần được đào tạo cẩn thận, bởi người giáo lý viên trước khi loan báo Lời phải trung thành sống và biến Lời thành của mình, trước khi dạy giáo lý phải sống chính giáo lý ấy đã. Để được như vậy, người giáo lý viên trước hết phải là người đã học biết giáo lý và sống thân mật với Chúa Kitô, Thầy chí thánh, và phải được huấn luyện tương xứng về các mặt nhân bản, thiêng liêng, giáo thuyết, sư phạm[11]. Vì thế việc đào tạo Giáo lý viên không chỉ trao ban những kiến thức về chân lý đức tin, nhưng trên hết mọi sự người giáo lý viên cần được hướng dẫn để có lòng say mê và gắn bó với Chúa Giê-su, và làm sao cuộc đời của giáo lý viên phải phản ảnh một Giê-su sống động, gần gũi, “Chính Đức Giêsu trong khi thi hành sứ vụ cũng đề cao giá trị của việc tiếp xúc cá nhân. Việc này đòi hỏi người rao giảng Tin mừng phải quan tâm tới tình cảnh của người nghe, để có thể loan báo cho họ phù hợp với trình độ trưởng thành của họ, theo một hình thức và dùng một ngôn ngữ thích hợp”[12].
3/ Các đoàn thể tông đồ giáo dân, môi trường phát huy vai trò ngôn sứ của người giáo dân
Công đồng Vat. II đã khẳng định: “Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vua... Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó; họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo hội; họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa, nhất là bằng việc dạy giáo lý; họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo hội sinh hiệu quả hơn” (Sắc lệnh về hoạt động Tông đồ Giáo dân, số 10).
Để phát huy sự cộng tác của người giáo dân vào đời sống Giáo hội, Giáo hội khích lệ người Giáo dân phát triển tinh thần hiệp thông Giáo hội qua việc hình thành các đoàn thể Tông đồ. “Sự hiệp thông Giáo hội, vốn đã có và hoạt động trong hành động của từng cá nhân, lại được diễn tả một cách đặc biệt qua hành động tập thể của giáo dân, tức là một hành động liên đới được thực hiện trong sự tham gia có trách nhiệm vào đời sống và sứ vụ của Giáo hội”[13], Giáo hội nhìn thấy sự tham gia của người Giáo dân vào các đoàn thể tông đồ thể hiện tinh thần trách nhiệm trong việc làm cho “sứ vụ Tin mừng Đức Kitô như nguồn hy vọng cho mọi người và như nguồn mạch canh tân cho xã hội”[14].
Tuy nhiên, mỗi thành viên trong đoàn thể tông đồ đòi hỏi phải thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình qua việc “dấn thân tuyên xưng đức tin công giáo chấp nhận và công bố chân lý về Đức Kitô, về Giáo hội và về con người, theo đúng giáo huấn của Giáo hội, vì Giáo hội giải thích chân lý đó cách chính thức. Mọi hiệp hội giáo dân đều phải là môi trường loan báo và trình bày đức tin, cũng là nơi để giáo dục đức tin đó trong nội dung toàn vẹn của nó”[15]. Có thể nói, chính trong môi trường đoàn hội, mỗi một hội viên đều có điều kiện để thể hiện vai trò ngôn sứ của mình qua việc dấn thân vào công việc tông đồ. Trong đời sống đức tin, mỗi người cần sự giúp đỡ từ các Kitô hữu cùng niềm tin để thực hiện bước tiếp theo trong mối tương quan với Chúa Kitô và Giáo hội, và mỗi người chúng ta đều có thể giúp đỡ người khác. Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả các thành viên của Dân Chúa đã trở thành những môn đệ truyền giáo. Tất cả những người đã được rửa tội, bất kể vị trí của họ trong Giáo hội hay trình độ giáo dục đức tin của họ, đều là những tác nhân truyền giáo, và sẽ là không đủ nếu vạch ra một kế hoạch truyền giáo do các chuyên gia thực hiện trong khi những tín hữu còn lại chỉ đơn giản là những người nhận thụ động. Việc tân phúc âm hóa kêu gọi sự tham gia cá nhân của mỗi người đã được rửa tội. Mọi Kitô hữu đều được thách thức, ở đây và bây giờ, tích cực tham gia vào việc truyền giáo; quả thực, bất cứ ai thực sự cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đều không cần nhiều thời gian hay đào tạo lâu dài để ra ngoài rao giảng tình yêu đó”.[16]
Qua Phúc âm Matthêu, chúng ta được nghe Chúa nói: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:19-20). Dự phần vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Kitô qua Bí tích Rửa tội, tất cả mọi người tín hữu đều được sai đi làm ngôn sứ, sai đi để loan báo Tin mừng, để như Công đồng Vatican II đã nói: “Giáo dân trở nên những người kiên cường loan báo niềm tin vào điều mình hy vọng, nếu họ không ngần ngại làm cho cuộc sống phù hợp với chính đức tin mà họ tuyên xưng. Việc loan báo Tin mừng, nghĩa là công bố Đức Kitô bằng chứng từ đời sống và bằng lời rao giảng, mang một sắc thái đặc thù và có hiệu năng đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh thông thường của thế giới… Tất cả giáo dân đều phải cộng tác vào việc mở mang và phát triển vương quốc Đức Kitô trên trần thế” (Hiến chế Lumen Gentium, số 35)
Giáo hội sẽ không thể nào chu tất sứ vụ của mình nếu không có sự cộng tác tích cực của người Giáo dân, do đó Giáo hội không ngừng nhắc nhở: “giáo dân được kêu gọi tham gia cách tích cực vào toàn bộ đời sống của Giáo hội”, cũng như “làm sinh động thế giới bằng tinh thần Kitô giáo” “Họ phải trở thành nhân chứng cho Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh và ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại” (Hiến chế Gaudium et Spes 43). Điều này có nghĩa là người giáo dân thi hành chức vụ ngôn sứ của mình với tư cách là chứng nhân cho Chúa Kitô trong đời sống hôn nhân và gia đình, cũng như trong hoạt động công khai, đặc biệt là tại nơi làm việc của họ. Vào thế kỷ 19, Chân phước Newman đã nói với những người bạn đồng hành Oratorian của mình những lời mà người Công giáo cần ghi nhớ trong lòng ngày nay: “Các bạn không được giấu tài năng của mình trong khăn ăn, hay giấu ánh sáng của mình dưới một cái đấu. Tôi muốn một giáo dân, không kiêu ngạo, không hấp tấp trong lời nói, không hay tranh cãi, nhưng là những người hiểu biết về đức tin của mình, những người bước vào đức tin đó, những người biết chính xác họ đứng ở đâu, những người biết họ giữ gì và những gì họ không giữ, những người hiểu rõ tín điều của mình đến mức họ có thể giải thích về nó, những người biết nhiều về lịch sử đến mức họ có thể bảo vệ nó. Tôi muốn một giáo dân thông minh, được giáo dục tốt”[17].
Hồi tâm
1) Tôi thực thi sứ vụ tiên tri như thế nào trong hoàn cảnh hôm nay?
2) Đâu là môi trường thuận lợi để tôi chu toàn sứ vụ tiên tri của mình?
3) Tôi có sẵn sàng tham gia khi được mời giảng dạy giáo lý?
----------
BÀI III - CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG: LOAN BÁO TIN MỪNG QUA ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN - FX. Nguyễn Thái
Chứng tá đời sống là một khía cạnh quan trọng trong việc loan báo Tin mừng, đặc biệt trong bối cảnh của môi trường sống ở Việt Nam thiếu vắng Kitô giáo. Nó không chỉ đơn thuần là việc truyền đạt giáo lý Công giáo mà còn là thể hiện đức tin Kitô giáo qua hành động và lối sống hàng ngày. Khi chúng ta nói về việc làm chứng cho Tin mừng, là chúng ta đang nói đến việc sống theo những giá trị và giáo huấn của Chúa Giêsu.
Loan báo Tin mừng qua đời sống chứng nhân không chỉ là một nhiệm vụ mà còn là một cách sống. Đó là việc sống đức tin qua hành động, thái độ và mối quan hệ thấm đẫm tình yêu của Chúa Kitô với người khác. Khi chúng ta sống theo những giá trị của Tin mừng, là chúng ta làm chứng cho đức tin của mình và góp phần xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. (x Mt 5, 14-16)
1/ Loan báo Tin mừng là sống với những giá trị Tin mừng của Đức Kitô
Loan báo Tin mừng bắt đầu từ việc sống cuộc đời đạo đức, yêu thương và phục vụ. Những hành động tốt đẹp, sự tha thứ, và lòng nhân ái là những cách thể hiện rõ ràng nhất về đức tin của chúng ta. Yêu thương và phục vụ đối với mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, và những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Mẹ Têrêsa sống theo gương Đức Kitô, ngài yêu thương và phục vụ những người nghèo bị bỏ rơi. Ngài nói: “Trong cuộc sống, chúng ta không thể làm được những điều vĩ đại. Chúng ta chỉ có thể làm những điều nhỏ bé với tình yêu vĩ đại mà thôi”. Đức khiêm nhường cũng không thể thiếu trong đời sống chứng nhân. Khiêm nhường là nền tảng của nhiều nhân đức khác, khiêm nhường trong hành động và lời nói, không tự cao tự mãn, mà luôn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi lời Chúa, những giáo huấn của Giáo hội, và các hướng dẫn từ người khác. (x Cl 3, 17)
Đời sống cầu nguyện, ngoài các giờ cầu nguyện chung để củng cố đức tin và tìm sự nâng đỡ của cộng đoàn trong Chúa, thì cầu nguyện riêng tư rất cần thiết. Chúng ta hãy duy trì thói quen cầu nguyện hàng ngày, chỉ một mình ta với Chúa, thường thì ở nơi thanh vắng, trong phòng riêng, chúng ta dễ tập trung việc cầu nguyện và có được những cảm nghiệm cá vị với Đức Kitô. Những tâm tình đơn sơ mà ngày nào cũng có thể nói với Chúa: Sự tín thác vào Chúa, trong những lúc khó khăn cũng như thuận lợi, tình yêu mến Chúa, lòng biết ơn, cầu xin những ơn trong ngày và lắng nghe sự hướng dẫn từ Ngài... Hơn nữa, thói quen kết hiệp mật thiết với Chúa trong ngày sống, qua từng việc làm sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, và tìm được sự vui tươi bình an trong Chúa (x Ga 15, 5).
2/ Chứng tá qua hành động
Chứng tá qua hành động là sống một cuộc đời hy sinh và phục vụ, tôn trọng và yêu thương nhau mà người khác có thể nhìn thấy Đức Kitô trên gương mặt chúng ta. Hành động và thái độ tích cực có thể truyền cảm hứng cho người khác, khuyến khích người khác là bạn bè và người thân tham gia vào các hoạt động tôn giáo và các hoạt động bác ái. Cụ thể là tham gia vào hoạt động bác ái của giáo xứ và các hội đoàn, hay là tình nguyện viên của các đội nhóm ngoài xã hội, và các dự án cộng đồng để giúp đỡ những người xung quanh. Đối xử công bằng và tôn trọng mọi người, bất kể họ đến từ đâu hay có hoàn cảnh như thế nào, sẽ làm cho người khác tin tưởng vào cộng đoàn chúng ta và nhận ra Tin mừng cứu độ của Chúa.
Chứng tá qua hành động còn được thể hiện trong những lúc khó khăn, lòng cậy trông vào Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách. Khi chúng ta giữ vững đức tin và niềm hy vọng, chúng ta trở thành chứng nhân cho những người xung quanh, và người ta nhận ra rằng niềm tin và lòng cậy trông vào Chúa mang lại sức mạnh. (x Rm 5, 3-4)
3/ Chia Sẻ kinh nghiệm đức tin
Chia sẻ kinh nghiệm đức tin là chúng ta kể lại những câu chuyện cá nhân về hành trình mình đi theo Chúa, những vui buồn khó khăn và cảm nghiệm được Chúa ban ơn. Đừng ngần ngại chia sẻ những trải nghiệm cá nhân về đức tin mà Chúa dẫn dắt ta đi, có những nẻo đường đau khổ tưởng chừng ta xa Chúa, ngụp lặn trong tội lỗi nhưng rồi lại được trở về bên Chúa, sống an vui trong tình thương của Chúa. Những lần gặp nhau trong từng nhóm nhỏ, chúng ta cũng có thể thảo luận về đức tin, hãy tạo ra các cuộc trò chuyện về đức tin với bạn bè, gia đình và cộng đồng, giúp họ ý thức và hiểu rõ hơn về Chúa và Tin mừng. Chúng ta có thể chia sẻ niềm tin của mình qua các cuộc đối thoại, các hoạt động cộng đồng, hoặc đơn giản là qua cách chúng ta sống hàng ngày. Khi người khác thấy niềm vui và sự bình an trong cuộc sống của chúng ta, họ sẽ tò mò và muốn tìm hiểu về đức tin mà chúng ta đang sống.
4/ Loan báo Tin mừng là sống niềm hy vọng không làm thất vọng
Thông thường theo lẽ tự nhiên thì niềm hy vọng của chúng ta là công ăn việc làm, tiền bạc nhà cửa, có được điều này điều kia. Nhưng về mặt siêu nhiên thì Chúa muốn chúng ta tìm kiếm Chúa trước còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho (x. Mt 6, 33). Chúa chính là niềm hy vọng, có Chúa trong tâm hồn là có sự sống của Chúa, có tình yêu của Chúa nên sẽ không làm chúng ta thất vọng. Hy vọng có thể mang lại sức mạnh, sự an ủi và niềm tin vào tương lai, ngay cả trong những lúc khó khăn.
Cậy dựa vào Chúa Ngài bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời, Chúa yêu chúng ta vô cùng, chúng ta hãy cậy trông vào Chúa để Người đi vào cuộc đời mình. Lòng cậy trông vào Chúa là một khía cạnh quan trọng trong đức tin Kitô giáo. Trong Thánh Kinh, đặc biệt là trong thư gửi tín hữu Rôma (x. Rm 5,5) chúng ta thấy rằng, lòng cậy trông của chúng ta không làm thất vọng, vì Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta, Người cho chúng ta sự sống, Người tái tạo chúng ta thành con người mới và ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, ơn đạo đức,... Điều này nhấn mạnh rằng khi chúng ta đặt niềm tín thác vào Chúa, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, và đó cũng là lúc chúng ta loan báo Tin mừng.
Hồi tâm
1) Trước khi loan báo Tin mừng đòi hỏi chúng ta phải có đời sống cầu nguyện, sống với những giá trị Tin mừng và những đức tính siêu nhiêu, những đức tính tự nhiên cần thiết, bạn đang tập luyện như thế nào?
2) Bạn có chọn loan báo Tin mừng qua đời sống hy sinh phục vụ bằng những việc làm nhỏ với tình yêu lớn không. Bạn lan tỏa việc làm này như thế nào trong giáo xứ và hội đoàn?
3) Bạn có ngần ngại bày tỏ niềm tin và có xấu hổ khi chia sẻ chứng nhân cho anh chị em không, ngần ngại nhất là điều gì? Làm sao để ý thức và cố gắng tập thành thói quen chia sẻ việc làm quan trọng này? Bạn có nghĩ tới việc chia sẻ “sống niềm hy vọng không làm thất vọng” không?
----------
BÀI IV - TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN TRONG SỨ MẠNG: ĐÓN NHẬN TRÁCH NHIỆM VÀ TẬN TỤY THAM GIA SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG - Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn
“Sứ vụ cứu độ của Giáo hội trong thế giới được thực hiện không những nhờ các thừa tác viên đã lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng còn nhờ tất cả mọi Giáo dân: thực vậy, nhờ đã được chịu phép thánh tẩy và nhờ ơn gọi chuyên biệt của mình, các Giáo dân, mỗi người theo mức độ của mình, tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô” (Tông huấn Christifideles Laici số 23). Như vậy, mỗi Kitô hữu đều có vinh dự và nghĩa vụ trong công cuộc loan báo Tin mừng. Mỗi người đều có phận vụ riêng cho mình, như Lời Chúa đã dạy qua thánh Phaolô: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận (1Cr 12, 27). Trong công việc chung, mỗi cá nhân đều được giao phó một phần việc cụ thể để hoàn thành, nếu kết quả không tốt thì phải nhận lãnh trách nhiệm. Mỗi Kitô hữu đều phải biết đón nhận trách nhiệm và tận tụy tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng.
Chúng ta cần phải ý thức rằng chính Chúa Giêsu Kitô, qua Hội thánh của Ngài, đã trao phó cho chúng ta sứ mạng loan báo Tin mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Trong công cuộc loan báo Tin mừng, mặc dù có nhiều nhiệm vụ khác nhau, nhưng tất cả đều được quy hướng và tham gia vào sứ vụ của Chúa Kitô: người Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11), người Tôi Tớ khiêm tốn và sẵn sàng hy sinh để mang ơn Cứu rỗi đến cho mọi người (Mc 10, 45).
Với phận sự trong công cuộc loan báo Tin mừng, mỗi người chúng ta đón nhận trách nhiệm như thế nào? Có khi chúng ta đón nhận theo chiều hướng tiêu cực với những cảm xúc buồn sầu chán nản, hay than thở, viện cớ, đổ lỗi cho người khác… Tất cả những cử chỉ hành vi tiêu cực đó đều là thiếu nhân bản và không đúng theo Thánh ý Chúa.
Chúng ta cần phải đón nhận trách nhiệm Chúa trao phó qua tinh thần tích cực và yêu thương, trong ý hướng “Hiệp Hành và Loan Báo Tin mừng: Hành trình Đức Tin với Niềm Hy Vọng”, để làm nên một Dân duy nhất của Thiên Chúa, một Thân Thể duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
Trong Nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô, mỗi Kitô hữu vẫn là một “hữu thể độc nhất và không thể thay thế”, điều đó làm cho tính độc nhất bất khả thay thế của mỗi người có được ý nghĩa sâu xa nhất, vì tính độc nhất này là nguồn gốc của sự đa dạng và phong phú cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta, với tính cách độc nhất không thể thay thế của mình, hiến thân làm cho sự hiệp thông được tăng trưởng bằng cử chỉ và hành động tích cực của mình.
Trong việc loan báo Tin mừng, chúng ta cần phải hăng say tận tụy hết lòng tham gia vào Sứ vụ. Phải luôn ý thức sống động mỗi người là một “bộ phận” của Hội Thánh, được trao phó cho một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế hay ủy thác cho người khác. Đó là một vinh dự cũng như là một nhiệm vụ phải hoàn thành để sáng Danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
Mỗi Kitô hữu đón nhận trách nhiệm và tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng của Chúa bằng nhiều hình thái khác nhau và với mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có những trách nhiệm với chính bản thân mình, với gia đình làng xóm, với xã hội, với bạn bè… Mỗi người phải luôn ý thức mình là con cái của Chúa, có Chúa là Cha, và mọi người đều là anh chị em con cùng một Cha. Ngài là Đấng Thánh và Ngài muốn mọi người được ơn Cứu rỗi, được hưởng Hạnh phúc với Ngài.
Khi đón nhận trách nhiệm và tận tụy tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng, chúng ta đã sống mầu nhiệm hiệp thông với các chi thể của Nhiệm thể Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta được tháp nhập vào Chúa, nhận sức sống nơi Chúa và được lan tỏa tình yêu thương Tin mừng của Chúa đến cho mọi người, như Lời Chúa đã phán: "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5)
Trong việc đón nhận và tham gia một cách tận tụy vào sứ mạng loan báo Tin mừng, chúng ta cần phải lấy Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm, nhờ vào Tình yêu của Chúa Cha và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Mức độ thánh thiện của chúng ta được đo bằng tầm mức mà Chúa Giêsu Kitô lớn lên trong chúng ta, nghĩa là theo mức độ mà chúng ta rập khuôn cả cuộc sống mình theo cuộc sống của Ngài. Để Chúa Kitô không ngừng lớn lên trong đời sống nội tâm của chúng ta, chúng ta cần phải ý thức Chúa muốn mỗi người nên thánh, như Chúa đã phán: “… các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh…” (Lv 11,44).
Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm cho mọi hành động suy tưởng của chúng ta, tất cả đều quy hướng nơi Chúa Giêsu Kitô, để Ngài sống trong chúng ta và chúng ta được sống trong Chúa, để chúng ta được kết hợp với cái chết và sự sống lại của Chúa bằng đời sống của chúng ta. Trong đời sống, có những lúc chúng ta đã quên đi Tình Chúa, nhưng Ngài đã thương tha thứ và ban ơn soi sáng trợ giúp để chúng ta được trở về sống trong ân sủng tình thương của Ngài. Qua cuộc đời được sai đi và phục vụ của chúng ta, chúng ta nhận ra thông điệp mà Chúa Thánh Thần ban cho Dân Chúa là Ngài đã soi sáng hướng dẫn trợ giúp để mỗi người nhận ra và sống với Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8). Ngài mời gọi chúng ta nên thánh, Ngài ban cho mỗi người một sứ mạng để chu toàn theo Thánh ý Chúa. Nhờ Chúa Thánh Thần trong Đức Giêsu Kitô chúng ta đến được với Tình yêu của Cha.
"Cả bạn nữa, bạn cũng cần phải nhìn toàn thể cuộc đời mình như một sứ mạng. Hãy cố gắng thực hành như thế bằng cách lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và nhận biết các dấu chỉ mà Ngài ban cho bạn. Hãy luôn xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho biết Chúa Giêsu mong đợi gì ở bạn, trong mọi lúc của cuộc sống bạn và trong mọi quyết định bạn phải thực hiện, để phân định vị trí của điều ấy trong sứ mạng mà bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần luyện đúc bạn nên mầu nhiệm riêng biệt, có thể phản chiếu Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay" (Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 09). Cuộc đời của mỗi người chúng ta là một sứ mạng mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta thực hiện để chúng ta được là con cái của Chúa, được trở nên thánh, vì “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1Tx 4, 3). Sứ mạng của chúng ta đã “được Chúa Cha hoạch định để phản chiếu và thể hiện cụ thể một khía cạnh nào đó của Tin mừng, ở một thời điểm nào đó của lịch sử” (Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 19). Chúng ta nhận ra sứ mạng riêng của mình bằng cách cầu nguyện, học suy Lời Chúa và tìm kiếm Thánh ý Chúa qua các dấu chỉ thời đại ảnh hưởng đến riêng sứ mạng bản thân chúng ta. Cho đến hôm nay, sứ mạng của chúng ta là loan báo Tin mừng, là làm chứng cho Tình yêu Cứu độ của Chúa cho tất cả mọi người bằng đời sống thường ngày của chúng ta. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Tình yêu của Cha, để sống với Đức Kitô và được Chúa sống trong cuộc đời, để có thể hiệp thông chia sẻ với tất cả mọi người trong tình thương phục vụ, và để mọi người nhận ra và sống với Thiên Chúa là Cha, với Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa và trong Tình thương của Ngôi Ba Thiên Chúa.
Hồi tâm:
1) Theo bạn, việc loan báo Tin mừng được thực hiện ở nơi đâu?
2) Bạn có nhận ra phần vụ của cá nhân bạn trong công cuộc loan báo Tin mừng?
3) Bạn lãnh nhận trách nhiệm và tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng như thế nào?
---------
[1] X. Lm. Gerald O'Collins. SJ Giáo Dân Như Là Những Thầy Dạy Của Giáo Hội, Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP, nguồn:https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-dan-nhu-la-nhung-thay-day-cua-giao-hoi-46136
[2] Đối với giáo huấn này về giáo dân, x. Ormond Rush, The Vision of Vatican II: Its Fundamental Principles, Collegeville, MN, Liturgical Academic, 2019, 269-308.
[3] Đức Phanxicô, bài giảng ngày 12-1-2025, tại Roma, nguồn: https://www.ncregister.com/news/pope-francis-to-families-teach-your-children-well-the-word-of-god
[4] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Người tín Hữu Giáo dân, số 23, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christifideles-laici-kito-huu-giao-dan-ve-on-goi-va-su-mang-cua-giao-dan-trong-giao-hoi-va-the-gioi-55844
[5] Lm. Gerald O'Collins. SJ, Giáo Dân Như Là Những Thầy Dạy Của Giáo Hội, Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP, nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-dan-nhu-la-nhung-thay-day-cua-giao-hoi-46136
[6] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, ban hành ngày 24-11-2013, tại Roma, số 102.
[7] Sắc lệnh Về Hoạt Động Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem), số 2.
[8] Thánh bộ Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc, “Hướng dẫn Giáo lý viên” (Guide for Catechists) 1993, số 2.
[9] Đức Thánh cha Phanxicô, Tự sắc Antiquum ministerium, ban hành ngày 11/5/2021, số 3, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-thu-thiet-lap-thua-tac-vu-giao-ly-vien-antiquum-ministerium-thua-tac-vu-co-kinh--41938
[10] Nt, số 6.
[11] Thánh bộ Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc, “Hướng dẫn Giáo lý viên” (Guide for Catechists) 1993, số 7&18.
[12] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội Tại Châu Á, số 20
[13] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Người tín Hữu Giáo dân, số 29.
[14] Nt.
[15] Nt số 30.
[16] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin mừng, số 120, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[17]https://www.cardinaljohnhenrynewman.com/the-faithful-laity-are-called-to-exercise-a-prophetic-defense-against-evil-actions-in-the-church/
Những tin cũ hơn