TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXII Thường Niên -Năm C

“Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên”. (Lc 14,1.7-14)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Hình ảnh Người Mẹ

Thứ năm - 28/08/2025 08:44 | Tác giả bài viết: Đức Hữu |   34
Nhìn dưới nhãn quan hiện sinh, tình yêu vô bờ của người mẹ có thể nói là động lực nguyên sơ và mạnh mẽ nhất cho lời thỉnh cầu đối với Đức Giê-su.
Hình ảnh Người Mẹ

HÌNH ẢNH NGƯỜI MẸ: MẸ CỦA HAI CON ÔNG DÊ-BÊ-ĐÊ VÀ MẸ MO-NI-CA


Bà Sa-lô-mê, mẹ của hai con ông Dê-bê-đê: Một tình mẫu tử nhân loại.

Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: “Bà muốn gì?” Bà thưa: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.” (Mt 20, 20-23).

Nhìn dưới nhãn quan hiện sinh, tình yêu vô bờ của người mẹ có thể nói là động lực nguyên sơ và mạnh mẽ nhất cho lời thỉnh cầu đối với Đức Giê-su. Hẳn là bất kỳ người mẹ nào trên thế gian cũng mong muốn điều tốt đẹp nhất cho con mình. Bà Sa-lô-mê, với tất cả niềm tin, nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, vị Vua sắp thiết lập triều đại của Ngài. Trong tâm thức của bà, cũng như của mọi người Do Thái thời đó, triều đại này gắn liền với quyền lực và vinh quang hữu hình. Hành động của bà Sa-lô-mê minh chứng của một tình yêu mãnh liệt, một nỗ lực để đảm bảo cho các con một tương lai vững chắc và vinh hiển nhất có thể trong “trật tự mới” mà bà tin rằng sắp đến. Đó là một lời cầu xin khởi sự từ trái tim, dù cho nó được diễn đạt bằng ngôn ngữ của trần thế. Chúng ta thấy ở đây không phải sự gian xảo, mà là sự đơn sơ và tha thiết nhuốm tình mẫu tử.

Lời thỉnh cầu của bà Sa-lô-mê, phương diện nội dung có vẻ như là một sự không đúng đắn, nhưng lại được xây dựng trên một nền tảng đúng đắn: đức tin. Bà sẽ không xin nếu bà không tin Đức Giê-su có một “Nước” để ban tặng. Bà tin Ngài là Vua. Vấn đề không nằm ở việc bà có tin hay không, mà là bà hiểu về Nước đó như thế nào. Đức tin của bà, cũng như đức tin của nhiều người trong chúng ta, là một đức tin đang trên hành trình, cần được thanh luyện. Bà Sa-lô-mê tin vào quyền năng của Đức Giê-su, nhưng chưa thấu suốt được bản chất của quyền năng đó là tình yêu tự hạ và phục vụ. Lời xin của bà chính là một hành vi đức tin cần được gọt giũa. Gia đình ông Dê-bê-đê không phải là một gia đình nghèo khó. Họ có thuyền, có lưới, có người làm công (x. Mc 1,20). Việc Gia-cô-bê và Gio-an từ bỏ tất cả để đi theo một vị Thầy rong ruổi là một sự hy sinh lớn lao. Bà Sa-lô-mê, với tư cách là người mẹ, chắc chắn đã cảm nhận sâu sắc sự hy sinh này. Bà đã “đầu tư” những gì quý giá nhất của mình – chính các con trai của bà – cho sứ vụ của Đức Giê-su.

Từ góc nhìn rất con người, ta có thể hiểu rằng bà mong muốn sự hy sinh đó được đáp đền xứng cân. Bà Sa-lô-mê muốn chắc chắn rằng tương lai của các con mình được bảo đảm trong Nước mà chúng đã từ bỏ mọi sự để theo đuổi. Đáng chú ý là cách Đức Giê-su phản ứng. Ngài không hề quở mắng hay cho người mẹ của mình bị bẽ mặt. Ngài trả lời một cách vừa cương quyết vừa dịu dàng: “Các người không biết các người xin gì.” Ngài không dập tắt đức tin của họ, nhưng Ngài định hướng lại đức tin ấy. Ngài chuyển sự tập trung của họ từ phần thưởng sang con đường. Điều này cho thấy một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, một người Thầy kiên nhẫn, Đấng đón nhận chúng ta ngay cả trong những hiểu lầm và tham vọng còn mang tính trần tục nhất. Ngài không đuổi chúng ta đi, nhưng mời gọi chúng ta đi vào một sự hiểu biết sâu sắc hơn.

Thánh Mo-ni-ca: Một tình mẫu tử vinh thăng lên chốn trời cao.

Tôi nói là như thế là một ngày kia bà cũng sẽ có tôn giáo như tôi dù cho là tôn giáo nào. Bà liền trả lời ngay: "Không, mẹ không nghe nói "anh ta ở đâu bà ở đó" nhưng "bà ở đâu anh ta sẽ ở đó". Câu trả lời đó gây ấn tượng rất sâu xa cho tôi trong thời gian đó và tôi thường nhớ lại trong thời gian chín năm sau đó khi tôi đang đi trên con đường tăm tối của sai lầm và vô tín. Trong khi đó người phụ nữ đạo đức và trung thành tiếp tục cầu nguyện cho tôi, với nhiều lạc quan hơn, tuy cũng còn nhiều đau khổ và khóc lóc vì cuộc sống của tôi.Và lời cầu của mẹ tôi đã được nhận lời và một hôm tôi đã đứng tại chỗ bà đứng sau 9 năm phản loạn[1].

Thánh Mo-ni-ca (332-387) là người vợ và người mẹ đau khổ. 22 tuổi, kết hôn với Pa-tri-xi-ô, người chồng gấp đôi tuổi mình, tuy giàu sang quí tộc, nhưng hung dữ, ngạo mạn, ngang ngạnh, bạo hành, không chung thủy. Có ba người con, người con đầu, Au-gut-ti-nô, thông minh, trí thức, theo "bè rối" Ma-ni-kê, rất ham ăn chơi truỵ lạc. Cả nhà chồng đều "ngoại đạo", lại có khuynh hướng chống phá Ki-tô Giáo.

Chắc hẳn Mo-ni-ca không thể như nhiều bà mẹ Việt Nam, kêu rêu, ca thán, dạy bảo. Những điều thường vô ích và phản tác dụng. Chồng con đều là những nhà trí thức, có lập trường, có chủ kiến. Bà mẹ quê như Mo-ni-ca có thể làm gì được! Cả hơn hai mươi năm, bà chỉ có nước mắt và lời cầu nguyện. Nước mắt âm thầm. Lời cầu nguyện âm thầm. Và tình yêu trong nước mắt của người mẹ đã chiến thắng. Lời cầu nguyện thầm lặng bền bỉ của người mẹ đã chiến thắng. Ông chồng đã trở lại, thành Ki-tô hữu. Người con ngang ngược nhưng rất trí thức, cũng cúi đầu nhận Phép Rửa trở thành Ki-tô hữu. Ngày đó, bà biết sứ mệnh đời bà, sứ mệnh làm vợ và làm mẹ, đã hoàn thành. Bà ra đi trong bình an. Bà chiến thắng những ác độc, sa đọa, hư hỏng nơi chồng con. Vũ khí để bà chiến thắng, là tình yêu và lời cầu nguyện. Nước mắt yêu thương và lời cầu nguyện tín trung bền bỉ đã mãi dõi theo chồng theo con trên mọi nẻo đường, ở giảng đường đại học Ro-ma hay những chốn đầy ánh đèn bập bùng ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Mo-ni-ca dạy chúng ta tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện không? Lời cầu nguyện từ tấm lòng người mẹ càng như nối trời với đất, kéo tất cả năng lượng tình thương Trời Đất xuống, bao phủ thấm nhập vào người con. Sức mạnh của tình mẹ dù âm thầm nhưng đã quá sức lớn lao rồi! Sức mạnh của tình mẹ, nay nối với trời cao, tạo ra một nguồn năng lượng vô biên vô tận. Vẫn hay nói với các bà mẹ đau khổ rằng, nếu bà thương con bà một trăm phần, thì tình yêu Chúa với con bà là một tỷ phần. Có lẽ, nói vậy không đúng! Một tỷ tỷ phần tình yêu vô cùng đó, đang thể hiện nơi người mẹ, thể hiện qua tình mẹ, nơi người mẹ bền bỉ trung tín trong lời cầu nguyện lặng thầm.

Qua hai người mẹ ấy, ta học được gì?

Qua bà Sa-lô-mê, ta học được bài học lớn nhất đó là: Qua thập giá sẽ đến vinh quang (Per crucem ad lucem). Người mẹ từng xin cho con mình những chiếc ngai vàng vinh quang, cuối cùng lại tìm thấy vị trí đích thực của mình ở nơi ô nhục nhất: chân thập giá. Vinh quang mà bà tìm kiếm không nằm ở quyền lực, mà ở sự trung tín đến cùng trong đau khổ. Bà đã không được thấy con mình ngồi trên ngai vàng trần thế, nhưng bà đã trở thành chứng nhân cho hành động cứu chuộc vĩ đại nhất lịch sử. Bà đã "uống chén đắng" khi chứng kiến cái chết của Thầy mình. Và cuối cùng, bà đã được diễm phúc là một trong những người đầu tiên loan báo tin Mừng Phục Sinh. Đó mới là vinh quang đích thực, một vinh quang không ai có thể lấy đi được. Câu chuyện của bà Sa-lô-mê là hình ảnh của chính chúng ta. Chúng ta đến với Chúa với tất cả tình yêu, đức tin và những ước mơ tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Chúng ta cầu xin cho con cái thành công, cho gia đình khỏe mạnh, cho công việc thăng tiến. Đây đều là những lời cầu nguyện chính đáng. Tuy nhiên, câu chuyện này mời gọi chúng ta chất vấn: Liệu định nghĩa về “thành công”, “vinh quang”, “hạnh phúc” của chúng ta có phải là của Thiên Chúa không? Hay chúng ta đang áp đặt những tiêu chuẩn của thế gian lên Nước Trời? Hành trình đức tin là một quá trình liên lỷ để Chúa thanh luyện những ước mơ của chúng ta, giúp chúng ta chuyển từ việc xin "ngồi bên hữu bên tả" sang việc xin được "cùng uống chén đắng" với Ngài – tức là cùng yêu thương, cùng phục vụ, cùng hy sinh. Nhìn từ góc độ của người mẹ, câu chuyện không còn là một bài học khô khan về sự khiêm nhường, mà là một hành trình sống động của đức tin được thử thách và thanh luyện. Bà Salômê trở thành hình ảnh của mỗi chúng ta: một cộng đoàn yêu mến Chúa, tin tưởng vào Ngài, nhưng luôn cần được Lời Chúa gọt giũa để những ham muốn rất "người" của mình được biến đổi thành khát vọng rất “Trời”. Thay vì vội phán xét, chúng ta hãy nhận ra hình ảnh của chính mình nơi người mẹ này – với tất cả tình yêu, hy vọng, và cả những ước mơ cần được Chúa biến đổi. Và hãy học nơi Đức Giêsu lòng kiên nhẫn và thương cảm để đồng hành với nhau trên hành trình đi tìm ý nghĩa đích thực của sự vĩ đại.

Nơi thánh nữ Mo-ni-ca, bài học ta học được không gì khác là minh chứng của một sự kiên trì trong nguyện cầu. Trong hơn 30 năm trước khi người con hoán cải, bà đã tìm nhiều cơ hội để nói chuyện với Au-gut-ti-nô về Chúa, một lần nữa quan sát sự khôn ngoan thận trọng: Trong những năm nổi loạn của mình, Au-gut-ti-nô nói rằng Chúa không im lặng mà đã nói với ngài thông qua mẹ của mình. “Vậy thì những lời đó là của ai ngoài Chúa mà Ngài đã nói vào tai con qua mẹ con, người tôi tớ trung thành của Chúa? Khi Thánh Au-gut-ti-nô xa Chúa, những lời cầu nguyện không ngừng của Thánh Monica dành cho ngài đã trở thành huyền thoại.. Những lời cầu nguyện liên tục của bà dành cho ngài đã khiến Thánh Am-brô-xi-ô tiên tri rằng, “Đứa con của những giọt nước mắt đó không thể hưu mất được”. Đàng khác, bà Mo-ni-ca đã yêu con hết lòng trong suốt thời gian đó: Người con sau này viết, “Con không thể diễn tả hết tình yêu mà mẹ dành cho con, cũng như cách mẹ đã chịu đau khổ vì con trong tinh thần với nỗi đau đớn sâu sắc hơn nhiều so với nỗi đau mẹ cưu mang con trong thân xác”. Cuối cùng, không phải lời nói của Mo-ni-ca hay khả năng triết lý của bà đã thay đổi Au-gut-ti-nô. Đó là tình yêu của bà, lời cầu nguyện của bà, và sự thật rằng bà luôn sẵn sàng giúp đỡ người con khi giờ của con mình cuối cùng cũng đến. Tình yêu và sự quan tâm của bà dành cho Au-gut-ti-nô không bao giờ dao động[2].

Tác giả: Đức Hữu

 

 


[1] Thánh Âu-tinh, Tự thuật, không rõ dịch giả (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2007), Quyển I, đoạn 2, 6.
Trích dẫn bài viết này được trích từ Augustine, Confessiones, bản dịch Việt ngữ của ĐGM. Micae Nguyễn Khắc Ngữ (lưu hành nội bộ) căn cứ trên bản dịch Pierre de Labriolle, cổ La ngữ và Pháp văn, in lần thức 5, năm 1950 và bản dịch của Louis de Mondadon, Pháp văn, in năm 1947.  Một bản tương tự khác có thẩm quyền hơn (có nhà xuất bản): St. Augustin, Tự Thuật (Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2007). Tuy nhiên người viết bài này không chọn bản sau vì cách đánh số không chi tiết như bản trước: chỉ có số Chương và Đoạn mà không có đánh số dưới đoạn (các đoạn nhỏ hơn)

[2] X. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/3-bai-hoc-tu-cuoc-doi-cua-thanh-monica-danh-cho-cac-kito-huu-hien-dai truy cập ngày 26/8/2025

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây