01/08/2025
THỨ SÁU TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN
Thánh Alphongsô Liguori, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 13,54-58
CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG
Bước lên bờ, Đức Giê-su trông thấy đám đông dân chúng thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ. (Mt 14, 14)
Suy niệm: Trong một bài ca, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhắn nhủ: “Sống ở đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” Trong nhân loại, người có tấm lòng rõ nét nhất không ai bằng Đức Giê-su. Và một trong những kiểu nói gây ấn tượng hơn cả khi diễn tả tấm lòng ấy là Ngài chạnh lòng thương. Trông thấy dân chúng bơ vơ vất vưởng, Ngài chạnh lòng thương; thấy bà goá khóc thương người con trai một ở thành Na-in, Ngài chạnh lòng thương. Ta như thấy quả tim Ngài rung cảm, nhói đau trước nỗi khổ của con người. Chạnh lòng thương không chỉ được cảm nhận nơi lồng ngực của Đức Giê-su, nó còn được thốt ra từ chính môi miệng Ngài trong các dụ ngôn: người Sa-ma-ri trông thấy nạn nhân, thì chạnh lòng thương; người con thứ còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương; tôn chủ thấy tên đầy tớ mắc nợ mười ngày nén vàng bái lạy xin tha nợ, thì chạnh lòng thương…
Mời Bạn: Nhớ rằng chạnh lòng thương không phải là một tình cảm chóng qua của Đức Giê-su, nhưng nó biến thành những hành động cụ thể: với dân chúng, Ngài chữa lành các bệnh tật; với bà góa thành Na-in, Ngài cho con trai một bà được sống lại.
Sống Lời Chúa: Tập có tấm lòng như Đức Giê-su : chạnh lòng thương khi thấy đau khổ của người lân cận và có một hành vi bác ái cụ thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, quả tim Chúa nhói đau, rung động, chạnh lòng thương khi thấy nỗi đau của nhân loại. Xin cho chúng con có được tấm lòng như Chúa khi cư xử với người khác.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
THỨ SÁU TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN
Ca nhập lễ
Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người; Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những kẻ bị bỏ rơi. Chính Người ban cho dân Người được quyền năng và mãnh lực.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa là sức mạnh và là niềm trông cậy của chúng con không có Chúa chẳng có chi vững bền, chẳng có chi thánh thiện; xin mở lòng nhân hậu hướng dẫn chúng con để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con đã gắn bó với của cải muôn đời tồn tại. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I) Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
“Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh”.
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ðây là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy”. Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm việc xác nào trong ngày ấy”.
Chúa lại phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy.
“Ðó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta
Xướng: Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta.
Xướng: Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập.
Xướng: Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 26, 1-9
“Toàn thể dân chúng tập họp trước Thiên Chúa”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán rằng: “Ðây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Ðây Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa”.
Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: “Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: ‘Ðền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ’?” Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 68, 5. 8-10. 14
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng: Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con. Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà con không lấy, con cũng phải đền ư?
Xướng: Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con.
Xướng: Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 54-58
“Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con dâng lên những của lễ Chúa đã rộng ban cho chúng con; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho lễ tế này đem lại ân sủng dồi dào để chúng con được thánh hóa trong cuộc đời hiện tại và đạt tới hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con tham dự vào bí tích Thánh Thể, để chúng con đời đời tưởng nhớ Ðức Giêsu Con Một Chúa, đã chịu khổ hình và sống lại hiển vinh; xin cho bí tích tình yêu Người trối lại dẫn chúng con tới hưởng ơn cứu độ muôn đời. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
CHÚA GIÊ-SU VỀ THĂM NA-DA-RÉT LẦN THỨ HAI (Mt 13, 54-58)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
1. Khi xong xuôi cuộc truyền giáo ở Ga-li-lê, Chúa Giê-su trở về thăm quê hương Na-da-rét và đến giảng dạy trong Hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài: vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Mê-si-a. Do người ta không tin, nên Chúa Giê-su không làm nhiều phép lạ.
2. “Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Chúa Giê-su và có tính cách tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Chúa Giê-su qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.
Chúa Giê-su trở về quê hương của Ngài là Na-da-rét, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giê-su như là con bác thợ mộc Giu-se sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Si-mê-on đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Đền thánh: Chúa Giê-su luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận hoặc từ chối.
3. Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giê-su về giảng tại quê hương của mình cũng làm dấy lên những thông tin trái chiều về Ngài. Những người đồng hương Na-da-rét có lẽ đã nghe đồn thổi về Ngài và càng ngạc nhiên hơn khi nghe chính Ngài phát biểu trong Hội đường của họ. Những thành tích về sự khôn ngoan và phép lạ Ngài làm đã dấy lên trong họ câu hỏi: “Phải chăng Ngài không phải là Đấng Cứu Tinh mà Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc”? Và họ bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học: họ mở Kinh Thánh ra và thấy rằng Đấng Cứu Tinh xuất thân từ một nơi khác, chứ không phải từ ngôi làng nghèo nàn tăm tối như Na-da-rét. Họ điều tra về nguồn gốc Chúa Giê-su và thấy rằng cha mẹ và anh em Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn. Với lối suy luận và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương với Chúa Giê-su đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Chúa Giê-su đã là mạng chắn khiến họ không tin nhận nơi Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
4. Qua bài tường thuật, tác giả Mát-thêu muốn nêu bật cung cách và số phận của một vị tiên tri đích thực nơi Chúa Giê-su. Ý tưởng về ngược đãi và ngay cả bách hại được Chúa Giê-su nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giê-su muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống tiên tri trong Cựu Ước. Được Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các tiên tri trong Cựu Ước không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của một Giê-rê-mi-a. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị tiên tri này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.
5. Tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay đã ghi lại một chi tiết đáng chú ý: “Chúa Giê-su không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ không có lòng tin”. Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin của con người, hay đúng hơn, với lòng tin con người có thể nhận ra phép lạ trong mọi sự và trong từng giây phút cuộc sống. Phép lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện là đã hóa thân làm người và tự đồng hóa với mọi người nhất là với những kẻ thấp hèn bé mọn. Chỉ trong đức tin, con người mới có thể đón nhận phép lạ cả thể ấy.
6. Truyện: Thần Vit-nu trong tất cả mọi sự.
Người ta kể rằng Vit-nu là một trong những vị thần rất được những người theo Ấn giáo thờ kính, những người có niềm tin sâu sắc đều nhận ra thần Vit-nu trong tất cả mọi sự.
Một tín đồ kia sống rất siêu thoát, nhưng ông ta lại bị những người khác coi như một người khờ dại. Một hôm, sau khi đi khất thực ở một làng kia, người tín đồ thánh thiện này ra trước cổng làng và ngồi bên vệ đường để ăn những thực phẩm người ta bố thí. Đang lúc ông dùng bữa thì một con chó đói ở đâu chạy tới. Người tín đồ bèn dành đồ ăn của mình cho chó ăn, không mấy chốc người và vật trở nên thân thiện với nhau. Thấy cảnh kỳ lạ, dân chúng trong làng kéo nhau đến xem.
Nhưng một người trong đám đông lên tiếng: “Có gì lạ khiến chúng ta phải mất thì giờ đến xem, người này chỉ là một tên khờ khạo, bởi vì hắn không phân biệt được người với thú vật”.
Nghe thế nhiều người phá lên cười chế giễu.
Người tín đồ thánh thiện ấy điễm tĩnh trả lời: “Tại sao các ngươi lại cười? Các ngươi không thấy rằng Vit-nu đang cho ăn và Vit-nu đang được cho ăn sao? Tại sao các ngươi lại cười, hỡi Vit-nu”?
Nếu có niềm tin thì họ nhận ra thần Vit-nu trong tất cả mọi sự. Vậy tại sao họ không nhận ra Vit-nu nơi một người mà họ cho là khờ dại này.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Alphongsô Liguori, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Ca nhập lễ
Chúa đã cho người lên tiếng ở giữa giáo đoàn. Và ban cho người đầy tinh thần khôn ngoan và minh mẫn; Chúa mặc cho người áo vinh quang
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa không ngừng ban cho Giáo Hội những khuôn mẫu luôn luôn mới của đời sống Kitô hữu. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh giám mục An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri mà nhiệt thành cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ, để mai sau được Chúa ân thưởng cùng với thánh nhân. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa yêu mến của Thánh Thần, như xưa Chúa đã ban cho thánh An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri ơn cử hành các mầu nhiệm thánh và nhờ đó mà hiến mình làm của lễ. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Này là đầy tớ trung thành và khôn ngoan, mà Chúa đã đặt lên coi sóc gia nhân mình, để đúng giờ phân phát lúa thóc cho họ.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri nên người trung thành rao giảng và phục vụ bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con biết năng tham dự bí tích này và nhờ đó mà không ngừng ngợi khen Chúa. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thánh Alphonse (An-phong) là Đấng sáng lập hội dòng Chúa Cứu Thế vào một giai đoạn chủ nghĩa duy lý thống trị. Qua đời ngày 1 tháng tám năm 1787 tại Campanie (nước Italie), Ngài được phong thánh năm 1839 và năm 1871, Giáo hội tuyên bố Ngài là tiến sỹ Hội thánh.
Alphonse-Marie de Liguori sinh năm 1696 gần Naples, trong một gia đình quí tộc. Đỗ tiến sĩ luật đời và cả luật đạo năm mười bảy tuổi, nhưng năm 1723, Alphonse rời bỏ tòa án để đi làm linh mục (năm 1726). Trước tiên Ngài lo đào tạo các thừa sai sang Trung quốc tại một chủng viện ở Naples, nhằm phục vụ các bệnh nhân và giảng dạy giới bình dân. Về sau, Ngài giảng dạy trong các vùng quê miền Naples, nơi đây Ngài khám phá thấy sự thiếu thốn lớn trong vấn đề đạo đức. Điều này đưa Ngài tới việc thành lập một hội dòng mới (Dòng Chúa Cứu Thế) vào năm 1732 nhằm mục đích truyền giáo cho các miền quê, đặc biệt là cho giới bình dân và dạy dỗ về bí tích hòa giải. Năm 1749, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIV sẽ phê chuẩn luật dòng mới này. Mặc dầu có các khó khăn buổi đầu, hội dòng đã nhanh chóng phát triển, đặc biệt nhờ công của thánh Clément Hofbauer phổ biến sang Ba Lan và trong các xứ thuộc Đức.
Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện trong ngày cầu khẩn Chúa là Đấng không ngừng thúc đẩy phát sinh trong Hội Thánh “nhưng gương mẫu nhân đức mới”. Quả thế, vào thời đó giữa hai chủ trương lạc quan tôn giáo và nhặt nhiệm do Janséniste chủ xướng, thánh Alphonse đã xây dựng một hệ thống thần học luân lý được mệnh danh là “thuyết trung dung”, dựa trên nguyên tắc lòng nhân từ vô biên của Chúa, và đứng giữa hai thái cực nhặt nhiệm và thả lỏng của những người chủ trương “có thể”. Qua công trình của nhà luân lý quân bình, thánh Alphonse đã đặc biệt có công trong việc giải phóng các giáo hữu đương thời khỏi chủ trương quá nhiệm nhặt của phái Jansenius. Là nhà giảng thuyết và nhà luân lý lớn, thánh nhân cũng biết khai thác các tài năng thơ – nhạc của mình phục vụ cho nhiệt tình truyền giáo. Ngài là một trong những tác giả thánh ca Noel nổi tiếng. Người ta gán cho thánh Alphonse một trăm sáu mươi tác phẩm thần học hoặc đạo đức, trong đó phải kể Viếng Mình Thánh Chúa (1745), Vinh quang của Đức Maria (1750), Phương pháp lớn là cầu nguyện (1759), Luận về tình yêu của Đức Giêsu Kitô và Thần học luân lý (1753 – 1755). Tác phẩm trọn bộ của Người đã được dịch sang tiếng Pháp (1834 – 1842).
Phụng vụ bài đọc trích dẫn từ bộ Luận về tình yêu của Đức Giêsu Kitô cho ta thấy linh đạo của thánh An-phong là dựa trên tình yêu:“Vì Chúa biết rằng con người thường bị các ân huệ chinh phục, Chúa đã muốn buộc nó yêu Chúa vì các ơn của Người. Chúa nói, Ta muốn lôi kéo chúng bằng những thứ lưới mà loài người mắc phải, để chúng yêu Ta, vì đó là những sợi dây yêu thương”.
Lời nguyện trên lễ vật nhắc lại rằng thánh Alphonse đã tự dâng hiến chính mình “như một hy lễ thánh”. Đặc biệt là khi đã lớn tuổi, vị sáng lập dòng Chúa Cứu Thế đã gặp phải bao thử thách do những đau khổ lớn lao, nhưng ngài đã đón nhận tất cả với sự kiên nhẫn anh hùng: bệnh tật, ngờ vực, thậm chí cả sự xa lánh của chính gia đình dòng tu của mình, những cuộc tranh giành gây đối chọi giữa các thành viên hội dòng, kết cuộc đi đến chia rẽ, và sau hết nổi lo bị kết án, đã hằn sâu những năm cuối đời thánh nhân.
Lời nguyện tạ lễ gọi thánh An-phong là “nhà giảng thuyết và tư tế trung thành của Thánh Thể”. Ngài luôn tận tâm với việc canh tân lòng tôn sùng Thánh thể, – cách riêng, việc thực hiện các cuộc Viếng Mình Thánh Chúa, và Ngài đòi hỏi phải tôn kính Thánh Thể cách xứng đáng. Vị chủ chăn lớn thường nói: “Chính nhờ việc cầu nguyện mà các thánh nên thánh”; chính vì ý thức rõ tính cách quan trọng của cầu nguyện mà bản thân Ngài luôn thực hành và rao giảng, thánh nhân cũng đã thành lập một ngành nữ của hội dòng Chúa Cứu Thế với hoạt động chủ yếu là thần vụ, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng. Thánh nhân đặt “tình yêu vô biên” của Cha vĩnh cửu đối với nhân loại làm nền tảng cho toàn bộ giáo lý của Người, bởi vì “Đấng đã không từ chối giao phó chính Con Một mình vì tất cả chúng ta, làm sao Chúa lại không ban tất cả cho chúng ta, cùng với Con của Người?” (Luận về tình yêu Đức Giêsu Kitô).
Enzo Lodi
KHÔNG PHẢI CON BÁC THỢ SAO?
(THỨ SÁU - THÁNH ANPHONG 01/08)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Anphong hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa không ngừng ban cho Giáo Hội những khuôn mẫu luôn luôn mới của đời sống Kitô hữu. Xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh giám mục Anphong, mà nhiệt thành cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ, để mai sau được Chúa ân thưởng cùng với thánh nhân. Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (năm 1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Nhiệt thành cộng tác trong công trình cứu độ, bằng sức mạnh của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô: Thánh Phaolô hãnh diện vì những yếu đuối của mình. Sở dĩ người tông đồ lên tiếng nói, vì chính bản thân mình đã cảm nghiệm quyền năng và tình yêu của Chúa Kitô… Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của chúng ta. Kho tàng ơn thánh, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa.
Nhiệt thành cộng tác trong công trình cứu độ, bằng lòng mến Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anphong nói về: Lòng yêu mến Đức Kitô… Kẻ kính sợ Chúa, Người cho toại nguyện, nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu. Chúa gìn giữ mọi kẻ mến yêu Người. Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội, vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Nhiệt thành cộng tác trong công trình cứu độ, bằng lòng kính sợ, phụng thờ một mình Chúa mà thôi, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Lêvi: Đó là các đại lễ của Đức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 80, vịnh gia cho thấy: Reo lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta! Đàn hát lên nào, hòa nhịp trống cơm, bổng trầm gieo tiếng cầm tiếng sắt. Rúc lên đi, hãy rúc tù và, mồng một ngày rằm cho ta mừng lễ.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng. Trong bài Tin Mừng, dân chúng nói: Ông không phải là con bác thợ sao? Bởi đâu ông làm được những phép lạ như thế. Con bác thợ, mà làm được những phép lạ lớn lao. Lời hứa của Chúa vẫn tồn tại mãi: Sức mạnh của Chúa được biểu lộ trong sự yếu đuối; bình sành dễ vỡ lại chứa đựng quyền năng phi thường của Chúa, vì thế, thánh Anphong đã nói: Tất cả sự trọn lành thánh thiện của linh hồn, hệ tại, lòng yêu mến Đức Giêsu Kitô, là sự thiện tuyệt đối, và là Đấng cứu chuộc ta. Đức ái liên kết và bảo toàn tất cả mọi nhân đức làm cho con người nên trọn lành. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không đáng cho ta hết lòng yêu mến sao? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Vậy, chúng ta hãy hết lòng thờ phượng Người: Ai kính sợ Chúa, Người cho toại nguyện, nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu. Chúa gìn giữ mọi kẻ mến yêu Người. Chúa không ngừng ban cho Giáo Hội những khuôn mẫu luôn luôn mới của đời sống Kitô hữu. Ước gì chúng ta hằng noi gương thánh giám mục Anphong, mà nhiệt thành cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ, để mai sau được Chúa ân thưởng cùng với thánh nhân. Ước gì được như thế!
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn