ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC - Bài 1

Bài hướng dẫn thiêng liêng Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo phận Ban Mê Thuột từ ngày 09.11.2020 đến 13.11.2020, của Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn - Giám mục Phụ tá TGP Sài Gòn.
“SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”
VÀ ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC
 
1. Tất cả đều có đôi
2. Tính dục mầu nhiệm
3. Khám phá lại thân xác
4. Độc thân như một đề nghị từ Tin Mừng
5. Độc thân như một dấn thân của đời linh mục
6. Mẻ lưới rỗng và mẻ lưới đầy
7. Chỉ tình yêu của Đức Kitô thúc bách.


Linh mục với tính dục: Trao hiến và Phục vụ

Thiên Chúa dựng nên con người có đôi. Người nam và người nữ được “làm ra” tách biệt nhưng không đối nghịch. Họ khác biệt để hướng về nhau, bổ túc cho nhau. Họ xuất hiện như một “cặp biện chứng”. Số phận người này phụ thuộc người kia.

Vẻ đẹp của thân xác và tâm hồn của cả hai giới trên là sức hút và lôi cuốn cho nhau. Hai người được tạo dựng để trở thành quà tặng cho nhau. Hai người được tạo dựng để trở thành “quà tặng” cho nhau, như là những-nhân-vị-không-thể-thay-thế, không-thể-sao-chép. Ở trước mặt nhau như là đối tượng khác biệt, nhưng lại có xu hướng sâu thẳm hòa nhập để trở thành cặp đôi vĩnh viễn không thể xa lìa.

Linh mục là con người như mọi người. Linh mục đi tìm “nửa mình” nơi mọi người nam-nữ, đặc biệt, nơi Đức Kitô ở trong mọi người nghèo khổ.

Lý tưởng đó được theo đuổi và thực hiện bởi hàng triệu triệu người nam-nữ, qua các thế hệ, thời đại từ hơn hai ngàn năm nay. Đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô trong Tin Mừng, họ đã tự nguyện chọn “nếp sống độc thân”, như phương thế hữu hiệu để phục vụ các linh hồn. Thành công hay thất bại, tùy thuộc vào sự trung thành của họ với lời mời gọi của Đức Kitô.

Đôi dòng tóm lược những ý chính của 7 Bài giảng cho các linh mục Giáo phận Ban Mê Thuột, trong Tuần Tĩnh Tâm thường niên từ 9.11.2020 đến 13.11.2020, do Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, hướng dẫn.



 
Bài 1
TẤT CẢ ĐỀU CÓ ĐÔI
 
“Tất cả đều có đôi, cái này đối cái kia; / Người không làm gì dang dở./ Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, / nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được? (Hc 42, 24-25).

“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1, 26).

Ađam được tạo dựng theo hình ảnh Đức Kitô vì Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1, 15).
 
“Mầu nhiệm con người chỉ thật sự sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, Ađam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến là Chúa Kitô” (CĐ Vaticanô II, Heh. Gaudium et spes, 22).

“Thiên Chúa chúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển chim trời” (St 1, 28).

Con người được Thiên Chúa tạo dựng bước vào thế giới, tỏ lộ nơi hữu thể mình Thiên Chúa Tạo Hóa là Tặng phẩm trao hiến, và hơn thế nữa con người còn có vai trò hiện hữu như một tặng phẩm trao hiến, trước hết vì họ mang trong bản thể mình chỉ dấu của tặng phẩm, và kế đến vì họ chỉ đạt đến sự hoàn hảo qua sự tự hiến.

“Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra (St 2, 8).

Dẫu được ban tặng thế giới và muôn loài để làm chủ, con người vẫn không thỏa mãn trọn vẹn, vẫn còn cảm thấy “đơn độc” vì chưa thực hiện được sự trao hiến tương hỗ. Con người vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, là một “Chúng ta”, làm sao lại có thể sống đơn độc trong vườn Êđen? Con người không thấy có cái gì hay một ai đó tương xứng khả dĩ để sống bổ túc cho nhau. Đó là “sự đơn độc nguyên thủy”.

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con ngườí có nam có nữ” (St 1, 27).

Sau giai đoạn trù bị Ađam đơn độc trong vườn, Thiên Chúa tiếp tục công trình tạo dựng của Ngài và nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xưng với nó” (St 2, 18). Hình ảnh Thiên Chúa phản chiếu trên dung mạo Ađam giờ đây phải được hoàn thiện nhờ một tương quan khác mới mẻ với một ngã vị vừa miệng như nó nhưng khác với nó.

“Thiên Chúa lấy chiếc xương sườn đã rút từ con ngươi ra làm thành người đàn bà” (St 2, 22).

“Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người” (St 2, 21). Ađam rơi vào giấc ngủ mê man như hóa thành hư vô trong tình trạng hôn mê sâu để Thiên Chúa hành động như một bác sĩ phẫu thuật (sau khi đã hành động như một thợ gốm) rút một chiếc xương sườn (selâ) ra làm thành một người giống như ông nhưng khác ông. Hành vi tạo dựng là hành động thuộc riêng Thiên Chúa. Việc tạo dựng người đàn bà là hoàn toàn khuất mắt Ađam. Nếu Ađam có thể kiểm soát và thống trị các loài vật qua việc “đặt tên” cho chúng, điều đó hoàn toàn ông không thể làm đối với người đàn bà.

Thiên Chúa “làm” thành (banâ) người đàn bà. Chữ banâ theo Kinh thánh có nghĩa “xây dựng”, “làm ra”, “làm cho hiện hữu”, “tạo ra”. Chữ có nghĩa kiến trúc, xây dựng. Đối với người đàn bà, làm ra ở đây có nghĩa là sinh ra. Nếu đàn ông “xây dựng” nhà cửa, thành trì, đền thờ, vườn nho,... thì phụ nữ xây dựng bằng cách sinh thành các công dân cư ngụ, làm việc, sinh sống ở đó Đàn ông xây bằng sức mạnh cơ bắp của tay chân, đàn bà xây dựng bằng bụng dạ sinh dưỡng.

Chúa tạo thành người đàn bà từ một chất liệu mạnh mẽ - xươngsườn người đàn ông - đứng thẳng, mạnh mẽ trước người đàn ông, có khả năng làm trợ thủ (‘ezer) cho ông; đàng khác, nếu người đàn bà được dựng nên để sinh sản, thì phải hiện diện với ông trong một quan hệ diện đối diện để có thể tự hiến và đón nhận chàng (kenegdô). Để có thể thực hiện một quan hệ như thế, cần phải có một can thiệp có tính quyết định của Thiên Chúa Tạo Hóa trên cấu trúc cơ thể người đàn bà. Thật vậy, người đàn bà là kẻ duy nhất, trong số tất cả các động vật hữu nhũ, có thể đứng trước mặt người đàn ông trong mối quan hệ diện đối diện cho phép sống thân mật trao hiến và lãnh nhận như thế và có khả năng “sáng tạo” qua việc sinh sản.

“Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến với con người” (St 2, 22).

Chữ “dẫn” (bw) ở đây mang ý nghĩa hôn phối: chính Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến trao cho cho con người, như người cha dẫn cô dâu con gái đến trao vào tay chú rể hôn phu tương lai của nàng, trong ngày tân hôn. Người con gái được dẫn đến trước mặt Ađam là chi nếu không phải là một người nữ như là quà tặng ban cho chàng? Nàng là “quà tặng” (present/gift) trao trước mặt” (presence) người đàn ông. Tiếng “này, em đây” được thốt lên rất nữ tính ấy sau cùng đã cất nỗi cô đơn khỏi con người đàn ông của chàng. Từ cuộc hạnh ngộ với người phụ nữ, con người không còn sống chỉ để làm việc mà còn để yêu.

“Đây là xuơng bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Tiếng reo mừng một đàng nêu bật “căn tính” chung của hai người, nghĩa là nền tảng của mối quan hệ nam-nữ dị biệt; đàng khác cho thấy hai hình thái nhập thể của một nhân tính duy nhất, đàn ông và đàn bà: “Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông” (St 2, 23). Tiếng Hipri tỏ lộ căn tính và dị biệt này nơi trò chơi chữ nghĩa, ‘is và ‘issâh. Chữ ‘is có những nghĩa như là nhân bản, con người, người chồng; còn chữ ‘issha có nghĩa là đàn bà, người vợ. Khi người đàn bà xuất hiện con người đầu tiên Ađam trở thành người đàn ông hay chồng - ‘is - của người đàn bà hay người vợ - ‘issha.

Cuộc gặp gỡ này đã khai sinh con người một lần nữa, bằng cách chuyển trao con người từ tình trạng “đơn độc nguyên thủy” sang tình trạng “hợp nhất nguyên thủy”. Đó là cuộc sáng tạo con người dứt khoát.

Người đàn bà mà Chúa dẫn đến và giới thiệu với con người là “trợ tá tương xứng” của người đàn ông (St 2, 18).

“Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt (St 2, 24).

“Sự trao hiến cho nhau, với toàn thể nhân tính tức là với cả xác-hồn và giới tính khác biệt của họ, được thực hiện qua hành vi tự hiến và đón nhận tha nhân như tặng phẩm trao ban. Hai chức năng này của sự trao đổi hỗ tương kết nối với nhau thật sâu xa: Hành động trao ban và đón nhận thâm nhập sâu vào nhau đến độ chính khi cho là nhận, và nhận trở thành là cho đi”. Bởi thế, chính khi tự hiến và đón nhận lẫn nhau người nam và người nữ từng gặp lại chính mình và bước vào ơn gọi hôn nhân cao trọng của họ. Ngược lại, nếu vì một lí do bất kì nào đó ngăn chặn sự trao hiến này họ sẽ đánh mất chính mình và rơi vào vực thẳm vô nghĩa, chống lại ơn gọi làm người.

Kết luận: Đối chiếu hai quan niệm nhân học: androgyno và Thánh Kinh.

Quan niệm androgyno có hai đầu mối trung tâm: chối bỏ sự dị biệt tính dục, xem đó như một án phạt; và ước muốn quay trở về với hiện hữu nguyên thủy để chiếm hữu lại được sức mạnh thuở ban đầu. Về điểm thứ nhất, khát khao một tình yêu đầy xúc cảm được thể hiện không nhờ đến sự dị biệt tính dục, vì dựa trên nền tảng phi-dị-biệt và, thay vì cởi mở ra thì khép kín mình lại. Về điểm thứ hai, đàng sau cuộc tìm kiếm để hòa tan lại làm một hữu thể duy nhất, ẩn tàng một cám dỗ chiếm hữu lại quyền năng như các vị thần thánh.

Quan niệm nhân học androgyno lan tràn trong văn hóa hiện nay đang gieo vãi khắp nơi tư tưởng bất phân biệt giới tính hay chỉ có một giới duy nhất thôi. Đó là một tham vọng Promêtê, tức là ước muốn trở thành một toàn thể toàn năng “như” Thượng đế và cạnh tranh với Thượng đế, như androgyno cạnh tranh với các vị thần. Quan niệm này quả thật không thực tế vì có hậu kết bi thảm, chết chóc.

Trái lại, quan niệm nhân học của Thánh Kinh có một năng động sâu sắc: tặng phẩm trao hiến.

Mỗi thụ tạo khi bước vào hiện hữu mang một dấu ấn sự hữu hạn biểu lộ Tặng Phẩm nguyên thủy và mang trên mình ý nghĩa tặng phẩm ấy đến mức họ chỉ tìm gặp lại được mình khi tự hiến. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, chỉ dấu tuyệt vời của tặng phẩm trao hiến, đúng hơn con người là bí tích biểu lộ cách hữu hình sự sống vô hình là chính Thiên Chúa - Tặng Phẩm. Con người mạng tặng phẩm trong toàn thể ngã vị mình, khám phá ra tặng phẩm ấy trong các ý nghĩa của thân xác vốn có phân giới tính nam - nữ của mình và nơi chủ thể tính của nó. Con người thực hiện sự trao hiến ấy theo hai cách thức.

Trước hết là đảm lấy trách nhiệm của mình trước thọ tạo, nhưng nên hết là trao hiến hoàn toàn và trung tín với người phụ nữ, trợ tá “tương xứng” đứng “trước mặt” ông. Thánh Kinh nhìn thấy thân phận thụ tạo giới hạn bởi dị biệt tính dục, tức là hai hình thức nhập thể của bản tính duy nhất nơi con người, nam tính và nữ tính, là cơ hội của một cuộc gặp gỡ, một quan hệ, để đào sâu căn tính và ơn gọi, một sự trao hiến bản thân để nên một xương một thịt và rồi mở ra với sự sống con cái, một tương lai hứa hẹn chiến thắng.


Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn
- Giám mục Phụ tá TGP Sài Gòn.
Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...