2 Tông thư PATRIS CORDE của Đức Phanxicô


 
Tông thư PATRIS CORDE của Đức Phanxicô
 


Vũ Văn An
 

Tông thư PATRIS CORDE
(Bằng Trái Tim Người Cha)
Của Đức Thánh Cha Phanxicô
Về Kỷ niệm 150 năm việc công bố Thánh Giuse
là bổn mạng Giáo Hội Hoàn vũ


5. Một người cha can đảm một cách sáng tạo
 
Nếu giai đoạn đầu tiên của mọi việc chữa lành nội tâm thực sự là chấp nhận lịch sử bản thân của chúng ta và chấp nhận ngay cả những điều trong cuộc sống mà chúng ta không lựa chọn, thì giờ đây, chúng ta phải thêm một yếu tố quan trọng khác: lòng can đảm sáng tạo. Điều này đặc biệt xuất hiện trong cung cách chúng ta đối phó với các khó khăn. Đối đầu với khó khăn, chúng ta có thể hoặc bỏ cuộc và bỏ đi, hoặc bằng cách nào đó dấn thân vào. Đôi khi, các khó khăn mang lại nguồn lực mà chúng ta thậm chí không nghĩ rằng mình có.
 
Khi đọc các trình thuật tuổi thơ, chúng ta có thể hay thắc mắc tại sao Thiên Chúa không hành động một cách trực tiếp và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, Thiên Chúa hành động qua các biến cố và con người. Thánh Giuse là người được Thiên Chúa chọn để hướng dẫn buổi đầu của lịch sử cứu chuộc. Ngài là “phép lạ” thực sự mà nhờ đó Thiên Chúa cứu Hài Nhi và mẹ của Người. Thiên Chúa đã hành động bằng cách tin tưởng vào lòng can đảm sáng tạo của Thánh Giuse. Đến Bêlem và không tìm thấy chỗ ở nào để Mẹ Maria có thể sinh con, thánh Giuse đã dùng một chuồng ngựa và hết sức có thể, biến nó thành mái ấm cho Con Thiên Chúa bước vào trần gian (x. Lc 2: 6-7). Trước nguy cơ sắp xảy ra từ Hêrôđê, kẻ muốn giết Hài Nhi, một lần nữa trong giấc mơ, thánh Giuse đã được cảnh báo phải bảo vệ Hài Nhi, và nửa đêm ngài đã thức dậy chuẩn bị trốn sang Ai Cập (x. Mt 2:13-14 ).
 
Đọc những câu chuyện này một cách hời hợt thường có thể cho ta cảm tưởng: thế giới nằm trong quyền lực của những kẻ mạnh và quyền năng, nhưng “tin lành” của Tin Mừng hệ ở việc chứng tỏ rằng, đối với mọi cao ngạo và bạo lực của các quyền lực thế gian, Thiên Chúa luôn tìm được cách thực hiện kế hoạch cứu rỗi của Người. Cũng vậy, đời sống của chúng ta đôi khi có vẻ như nằm trong quyền lực của kẻ quyền thế, nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy điều gì mới đáng kể. Thiên Chúa luôn luôn tìm ra cách để cứu chúng ta, miễn là chúng ta chứng tỏ cùng một lòng can đảm sáng tạo như người thợ mộc Nadarét, người đã có thể biến một vấn đề thành một khả thể bằng cách luôn tin tưởng vào ơn quan phòng của Thiên Chúa.
 
Nếu có lúc dường như Thiên Chúa không giúp đỡ chúng ta, điều này chắc chắn không có nghĩa chúng ta đã bị bỏ rơi, mà đúng hơn, chúng ta đang được tin tưởng trong việc lập kế hoạch, có óc sáng tạo và tự tìm ra các giải pháp.
 
Thứ can đảm sáng tạo đó đã được chứng tỏ bởi những người bạn của người bại liệt, họ đã hạ anh ta từ trên mái nhà xuống để đưa anh ta đến với Chúa Giêsu (x. Lc 5: 17-26). Các khó khăn đã không cản trở sự mạnh dạn và kiên trì của những người bạn đó. Họ tin chắc rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành cho người đàn ông, và “vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Chúa Giêsu. Thấy họ có lòng tin như vậy, Người bảo : ‘Này anh, anh đã được tha tội rồi’ (câu 19-20). Chúa Giêsu nhìn nhận đức tin sáng tạo qua đó họ đã tìm cách đưa người bạn đau yếu đến với Người.
 
Tin Mừng không cho chúng ta biết Đức Maria, Thánh Giuse và Hài Nhi ở lại Ai Cập bao lâu. Tuy nhiên, họ chắc chắn cần ăn, tìm được nhà ở và việc làm. Không cần nhiều trí tưởng tượng mới điền được các chi tiết đó. Gia đình Thánh đã phải đối diện với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác, giống rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta, những người ngày nay cũng phải liều mạng sống để thoát khỏi bất hạnh và đói khát. Về vấn đề này, tôi coi Thánh Giuse như bổn mạng đặc biệt của tất cả những người buộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh, hận thù, bách hại và nghèo đói.
 
Ở cuối mỗi trình thuật trong đó thánh Giuse đóng một vai trò, Tin Mừng cho chúng ta biết rằng ngài trỗi dậy, đón lấy Hài Nhi và mẹ Người, và thực hiện những gì Thiên Chúa truyền cho ngài (x. Mt 1:24; 2: 14.21). Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ Người, là kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta [21].
 
Trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, Chúa Con không thể tách rời khỏi Mẹ của Người, khỏi Đức Maria, đấng đã “tiến xa trong cuộc lữ hành đức tin, và trung thành kiên trì kết hợp với Con của ngài cho đến khi ngài đứng dưới chân thập giá” [22].
 
Chúng ta nên luôn xem xét liệu bản thân chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay không, vì các ngài cũng được giao phó một cách mầu nhiệm cho trách nhiệm của chúng ta, cho sự chăm sóc và gìn giữ an toàn của chúng ta. Con của Đấng Toàn Năng xuống thế giới của chúng ta trong tình trạng rất dễ bị tổn thương. Người cần được Thánh Giuse che chở, bảo vệ, chăm sóc và nuôi nấng. Thiên Chúa đã tin tưởng Thánh Giuse, giống như Đức Maria, người đã tìm thấy nơi thánh nhân một người không những cứu mạng sống ngài mà còn luôn chu cấp cho ngài và người con của ngài. Theo nghĩa này, Thánh Giuse không thể nào khác hơn là Người Bảo vệ Giáo hội, vì Giáo hội là sự tiếp nối của Thân thể Chúa Kitô trong lịch sử, ngay cả khi tình mẫu tử của Đức Maria được phản ảnh trong tình mẫu tử của Giáo hội [23]. Trong việc tiếp tục bảo vệ Giáo hội, thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài Nhi và mẹ của Người, và chúng ta cũng vậy, bằng tình yêu của chúng ta đối với Giáo hội, chúng ta tiếp tục yêu mến Hài Nhi và mẹ của Người.
 
Hài Nhi đó sẽ tiếp tục nói: “Khi các ngươi làm điều đó cho một trong những người nhỏ bé nhất trong gia đình Ta, thì chính ngươi đã làm điều đó cho Ta” (Mt 25:40). Do đó, mọi người nghèo, túng thiếu, đau khổ hoặc sắp chết, mọi người lạ, mọi tù nhân, mọi bệnh tật đều là “hài nhi” được Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ. Vì lý do này, Thánh Giuse được cầu khẩn như Đấng che chở người bất hạnh, túng thiếu, lưu đày, đau khổ, nghèo khổ và hấp hối.
 
Do đó, Giáo hội không thể không biểu lộ tình yêu thương đặc biệt đối với những người anh chị em nhỏ bé nhất của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã tỏ ra quan tâm đặc biệt đến họ và đồng nhất với họ. Từ Thánh Giuse, chúng ta cũng phải học được cùng một cách chăm sóc và trách nhiệm như thế. Chúng ta phải học cách yêu thương Hài Nhi và mẹ của Người, yêu các bí tích và đức bác ái, yêu Giáo hội và người nghèo. Mỗi thực tại này luôn là Hài nhi và mẹ của Người.
 
6. Một người cha lao động
 
Một khía cạnh của Thánh Giuse đã được nhấn mạnh từ thời của Thông điệp xã hội đầu tiên, tức thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo Hoàng Leo XIII, là mối liên hệ của ngài với việc làm. Thánh Giuse là một người thợ mộc kiếm sống lương thiện để cung ứng cho gia đình. Từ ngài, Chúa Giêsu học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của điều có nghĩa là ăn bánh như thành quả sức lao động của chính mình.
 
Trong thời đại của chúng ta, khi việc làm một lần nữa trở thành một vấn đề xã hội nóng bỏng, và tỷ lệ thất nghiệp đôi khi lên đến mức kỷ lục ngay ở các quốc gia hàng nhiều thập niên qua vốn hưởng được một mức độ thịnh vượng nào đó, cần phải đánh giá cao một lần nữa tầm quan trọng của việc làm xứng đáng, việc làm mà Thánh Giuse vốn là bổn mạng mẫu mực.
 
Việc làm là một phương tiện để tham gia vào công trình cứu rỗi, một cơ hội để đẩy nhanh Nước Trời trị đến, để phát triển tài năng và khả năng của chúng ta, và để chúng phục vụ xã hội và tình hiệp thông huynh đệ. Nó trở thành cơ hội cho sự thành toàn không những của bản thân ta, mà còn của tế bào đệ nhất đẳng của xã hội, tức gia đình. Một gia đình không có việc làm đặc biệt dễ gặp khó khăn, căng thẳng, ghẻ lạnh và thậm chí tan vỡ. Làm sao chúng ta có thể nói tới nhân phẩm mà không có việc làm để đảm bảo mọi người đều có thể kiếm được một cuộc sống tử tế?
 
Những người đang làm việc, bất kể công việc của họ là gì, đều đang hợp tác cách nào đó với chính Thiên Chúa, và một cách nào đó trở thành những người tạo ra thế giới xung quanh chúng ta. Cuộc khủng hoảng của thời đại chúng ta, một cuộc khủng hoảng vốn có tính kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần, có thể đóng vai trò kêu gọi mọi người chúng ta khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc làm trong việc đem lại một “bình thường” mới mà không ai bị loại trừ khỏi nó. Việc làm của Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng chính Thiên Chúa, khi trở thành người phàm, đã không khinh thường việc làm. Hiện tượng mất việc làm ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta và đã gia tăng do hậu quả của đại dịch Covid-19, nên được xem như một lời hiệu triệu phải duyệt xét các ưu tiên của chúng ta. Chúng ta hãy khẩn cầu Thánh Giuse Thợ giúp chúng ta tìm cách phát biểu niềm tin chắc chắn rằng không một người trẻ nào, không một người nào, không một gia đình nào không có việc làm!
 
7. Một người cha trong bóng tối
 
Nhà văn Ba Lan Jan Dobraczyński, trong cuốn sách The Shadow of Father (Cái Bóng Người Cha) [24], kể câu chuyện về cuộc đời của Thánh Giuse dưới dạng một cuốn tiểu thuyết. Ông sử dụng hình ảnh chiếc bóng đầy gợi hình để định nghĩa Thánh Giuse. Trong mối liên hệ của ngài với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Chúa Cha trên trời: ngài trông nom và bảo vệ Người, không bao giờ để Người đi theo con đường riêng của mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong hoang địa… các ngươi đã thấy Chúa là Thiên Chúa của các ngươi cưu mang các ngươi như thế nào, giống như người bồng đứa con, suốt chặng đường các ngươi đi qua” (Đnl 1:31). Cùng một cách tương tự, Thánh Giuse hành động như một người cha trong suốt cuộc đời của Người [25].

Các người cha không được sinh ra, nhưng được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa con vào thế giới, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông nhận trách nhiệm đối với cuộc sống của một người khác, cách nào đó, họ đã trở thành cha của người đó.
 
Trẻ em ngày nay thường có vẻ mồ côi, thiếu cha. Giáo hội cũng cần những người cha. Lời Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô vẫn còn hợp thời: “Dù anh em có vô số người hướng dẫn trong Chúa Kitô, nhưng anh em không có nhiều người cha” (1 Cr 4:15). Mọi linh mục hay giám mục nên có thể nói thêm với thánh Tông đồ: “Tôi đã trở thành cha của anh em trong Chúa Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (đd). Tương tự như vậy, thánh Phaolô gọi những người Galát: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Chúa Kitô được thành hình nơi anh em!” (4:19).
 
Làm cha đòi hỏi phải dẫn nhập con cái vào cuộc sống và thực tại. Không phải kìm hãm chúng, quá bảo vệ hay chiếm hữu, mà là làm chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì lý do này, Thánh Giuse theo truyền thống được gọi là một người cha “khiết tịnh nhất”. Tước hiệu này không chỉ đơn giản là một dấu chỉ tình âu yếm, mà là một tổng kết cho thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Khiết tịnh là tự do thoát khỏi tính chiếm hữu về mọi lĩnh vực đời sống ta. Chỉ khi khiết tịnh, tình yêu mới là đích thực. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng trở nên nguy hiểm: nó cầm tù, giới hạn và khiến người ta khốn khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu khiết tịnh; Người để chúng ta tự do, thậm chí đi lạc và chống lại chính Người. Luận lý học của tình yêu luôn là luận lý học của tự do, và Thánh Giuse biết yêu một cách tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà tập chú vào cuộc đời của Đức Maria và Chúa Giêsu.
 
Thánh Giuse tìm thấy hạnh phúc không chỉ ở sự hy sinh bản thân mà ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy sự thất vọng mà chỉ thấy sự tin tưởng. Sự im lặng kiên nhẫn của ngài là khúc dạo đầu cho những biểu thức cụ thể của sự tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không cần các bạo chúa, những kẻ thống trị người khác như một phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của chính họ. Nó bác bỏ những ai lẫn lộn thẩm quyền với chủ nghĩa độc đoán, phục vụ với nô dịch, thảo luận với áp chế, bác ái với não tạng phúc lợi, quyền lực với hủy diệt. Mỗi ơn gọi đích thực đều phát sinh từ việc tự hiến chính mình, vốn là hoa trái của sự hy sinh trưởng thành. Tương tự như vậy, chức linh mục và đời sống thánh hiến đòi hỏi loại trưởng thành này. Bất kể ơn gọi của chúng ta là gì, dù kết hôn, độc thân hay trinh khiết, việc hiến mình của chúng ta sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh; nếu đúng như thế, thay vì trở thành một dấu hiệu của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu, việc tự hiến sẽ có nguy cơ trở thành biểu thức của bất hạnh, buồn bã và thất vọng.
 
Khi những người cha từ chối sống cuộc sống của con cái họ vì chúng, những viễn cảnh mới và bất ngờ sẽ mở ra. Mọi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể đưa ra ánh sáng với sự giúp đỡ của một người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con đó. Một người cha biết nhận ra rằng mình là một người cha và một nhà giáo dục hơn cả chính ở thời điểm ông trở nên “vô dụng”, lúc ông thấy con mình đã trở nên độc lập và có thể bước đi trên nẻo đường cuộc sống mà không cần người kèm cặp. Khi ông trở nên giống như Thánh Giuse, người luôn biết rằng đứa con của ngài không phải là của ngài mà chỉ đơn thuần được giao cho ngài chăm sóc. Cuối cùng, đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu khi Người nói: “Dưới đất, đừng gọi ai là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha ở trên trời” (Mt 23: 9).
 
Trong mỗi lần thực thi thiên chức làm cha của mình, chúng ta nên luôn nhớ rằng điều đó không liên quan gì đến việc chiếm hữu, nhưng đúng hơn là một “dấu hiệu” chỉ tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như thánh Giuse: một cái bóng của Chúa Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa cho kẻ công chính và kẻ bất chính” (Mt 5:45). Và là một chiếc bóng theo Con của Người.
 
* * *
 
Thiên Chúa nói với Thánh cả Giuse “Hãy trỗi dậy, dắt Con trẻ và mẹ Người đi” (Mt 2:13).
 
Mục đích của Tông thư này là gia tăng lòng yêu mến của chúng ta đối với vị thánh vĩ đại này, khuyến khích chúng ta khẩn cầu sự chuyển cầu của ngài và noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của ngài.
 
Thật vậy, sứ mệnh riêng của các thánh không chỉ là nhận được các phép lạ và ơn thánh, nhưng là cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa, như Ápraham [26] và Môsê [27], và giống như Chúa Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất” (1Tm 2: 5), Đấng là người “bênh vực” chúng ta với Chúa Cha (1 Ga 2: 1) và là người “luôn sống để chuyển cầu cho [chúng ta]” (Dt 7:25; x. Rm 8:34).
 
Các thánh giúp tất cả các tín hữu “phấn đấu để nên thánh và sự hoàn hảo của bậc sống đặc thù của họ” [28]. Cuộc sống của họ là bằng chứng cụ thể cho thấy có thể đem Tin Mừng ra thực hành.
 
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy học nơi Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29). Cuộc đời của các thánh cũng là những tấm gương đáng được noi theo. Thánh Phaolô nói rõ điều này: “Hãy bắt chước tôi!” (1 Cr 4:16) [29]. Bằng sự im lặng hùng hồn của ngài, Thánh Giuse cũng nói như vậy.
 
Trước tấm gương của rất nhiều người nam nữ thánh thiện, Thánh Augustinô đã tự hỏi: “Điều họ có thể làm, há bạn lại không thể làm sao?” Và do đó, ngài đã tiến gần hơn tới việc trở lại dứt khoát của ngài, khi ngài có thể thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, hỡi Vẻ đẹp luôn cổ xưa, luôn mới mẻ!” [30]
 
Chúng ta chỉ cần cầu xin Thánh Giuse cho được ơn thánh của mọi ơn thánh: đó là sự hoán cải của chúng ta.
 
Giờ đây, chúng ta hãy cầu nguyện với ngài:
 
Kính chào, vị bảo vệ Đấng Cứu Chuộc,
Phu quân Đức Diễm Phúc Maria.
Thiên Chúa đã giao phó Con Một của Người cho ngài;
nơi ngài, Đức Maria đã đặt niềm tin của mình;
với ngài, Chúa Kitô đã trở thành phàm nhân.

Lạy Thánh Giuse diễm phúc, xin tỏ cho chúng con thấy ngài là một người cha, và là người hướng dẫn chúng con trên đường đời.
Xin nhận cho chúng con ơn thánh, lòng thương xót và lòng can đảm, và bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.
 
Ban hành tại Rôma,
tại Nhà thờ Gioan Lateranô,
ngày 8 tháng 12,
Lễ trọng thể Vô nhiễm Nguyên tội của
Đức Trinh Nữ Maria, năm 2020,
năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
 
Franciscus
 
Ghi chú
 
[1] Lc 4:22; Ga 6:42; cf. Mt 13:55; Mc 6:3.
[2] Bộ Phụng Tự, Quemadmodum Deus (8 tháng 12, 1870): ASS 6 (1870-71), 194.
[3] Xem Diễn văn với ACLI Lễ trọng kính Thánh Giuse Thợ (1 tháng 5, 1955): AAS 47 (1955), 406.
[4] Xem Tông huấn Redemptoris Custos (15 tháng 8,1989): AAS 82 (1990), 5-34.
[5] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 1014.
[6] Suy niệm Thời Đại Dịch (27 tháng 3, 2020): L’Osservatore Romano, 29 tháng 3 2020, p. 10.
[7] In Matthaeum Homiliae, V, 3: PG 57, 58.
[8] Bài giảng (19 tháng 3, 1966): Insegnamenti di Paolo VI, IV (1966), 110.
[9] Xem Tự Truyện, 6, 6-8.
[10] Mỗi ngày, trong hơn bốn mươi năm, khi đọc kinh sáng, tôi đã đọc một kinh cầu cùng Thánh Giuse trích từ một cuốn sách cầu nguyện ở Pháp thế kỷ 19 của Dòng Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nó phát biểu lòng tận tâm và tin tưởng, và thậm chí còn đặt ra một thách thức nào đó cho Thánh Giuse: “Lạy Thánh Tổ Phụ Vinh Quang Giuse, người có quyền biến điều không thể thành có thể, xin đến giúp đỡ con trong những lúc lo âu và khó khăn này. Xin đặt dưới sự che chở của ngài các tình huống nghiêm trọng và rắc rối mà con đã ủy thác nơi ngài, để chúng có thể có một kết quả tốt lành. Lạy cha yêu dấu của con, mọi tin tưởng của con đều đặt nơi cha. Đừng để người ta nói rằng con đã cầu khẩn cha một cách vô ích, và vì cha có thể làm mọi việc với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin hãy cho con thấy rằng lòng tốt của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. A-men. ”
[11] Xem Đnl 4:31; Tv 69:16; 78:38; 86:5; 111:4; 116:5; Grm 31:20.
[12] Xem Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 88, 288: AAS 105 (2013), 1057, 1136-1137.
[13] Xem St 20:3; 28:12; 31:11.24; 40:8; 41:1-32; Ds 12:6; 1 Sm 3:3-10; Đn 2, 4; G 33:15.
[14] Trong những trường hợp như thế, đã có dự khoản ném đá (xem Đnl 22:20-21).
[15] Xem Lv 12:1-8; Xh 13:2.
[16] Xem Mt 26:39; Mc 14:36; Lc 22:42.
[17] Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (15 tháng 8, 1989), 8: AAS 82 (1990), 14.
[18] Bài giảng Thánh lễ và Phong Chân phúc, Villavicencio, Colombia (8 tháng 9, 2017): AAS 109 (2017), 1061.
[19] Enchiridion de fide, spe et caritate, 3.11: PL 40, 236.
[20] Xem Đnl 10:19; Xh 22:20-22; Lc 10:29-37.
[21] Xem Bộ Phụng Tự, Quemadmodum Deus (8 tháng 12, 1870): ASS 6 (1870-1871), 193; Chân phúc Piô IX, Tông thư Inclytum Patriarcham (7 tháng 7, 1871): l.c., 324-327.
[22] Công Đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 58.
[23] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 963-970.
[24] Ấn bản gốc: Cień Ojca, Warsaw, 1977.
[25] Xem Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos, 7-8: AAS 82 (1990), 12-16.
[26] Xem St 18:23-32.
[27] Xem Xh 17:8-13; 32:30-35.
[28] Công Đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 42.
[29] Xem 1 Cr 11:1; Pl 3:17; 1 Tx 1:6.
[30] Tự thú, VIII, 11, 27: PL 32, 761; X, 27, 38: PL 32, 795.
 
 
Vietcatholic News
Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...