Toàn văn Thông điệp Fratelli Tutti, Chương tám, tiếp theo
TÔN GIÁO VÀ BẠO LỰC
281. Cuộc hành trình hòa bình là điều khả hữu giữa các tôn giáo. Điểm xuất phát của nó phải là cách Thiên Chúa nhìn sự vật. “Thiên Chúa không nhìn bằng mắt, Chúa thấy bằng trái tim của Người. Và tình yêu của Thiên Chúa như nhau đối với mọi người, không phân biệt tôn giáo. Ngay cả khi họ là những người vô thần, tình yêu của Người vẫn vậy. Khi ngày cuối cùng đến, và có đủ ánh sáng để nhìn sự vật như chúng thực sự là, chúng ta sẽ thấy mình khá đáng ngạc nhiên” [278].
282. Do đó, “Các tín hữu chúng ta cần tìm dịp nói chuyện với nhau và cùng nhau hành động vì lợi ích chung và cổ vũ người nghèo. Điều này không liên quan gì đến việc hạ thấp hoặc che giấu các xác tín sâu sắc nhất của chúng ta khi chúng ta gặp gỡ những người khác có suy nghĩ khác với chúng ta… Vì bản sắc của chúng ta càng sâu sắc, mạnh mẽ và phong phú, chúng ta càng có khả năng làm giàu người khác bằng sự đóng góp thích đáng của chính chúng ta” [279]. Các tín hữu chúng ta được thử thách quay về nguồn của mình, để tập trung vào điều thiết yếu: thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương người lân cận, kẻo một số giáo huấn của chúng ta, khi bị lấy ra khỏi bối cảnh, kết cục nuôi dưỡng các hình thức khinh miệt, hận thù, bài ngoại hoặc phủ định người khác. Sự thật là bạo lực không có cơ sở trong các xác tín tôn giáo nền tảng của chúng ta, mà chỉ là trong sự xuyên tạc chúng.
283. Sự thờ phượng khiêm cung và chân thành đối với Thiên Chúa “không đem lại hoa trái kỳ thị, hận thù và bạo lực, mà là hoa trái tôn trọng tính thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, và cam kết đầy yêu thương đối với phúc lợi của mọi người” [280]. Quả thật, “ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4: 8). Vì lý do này, "chủ nghĩa khủng bố là đáng trách và đe dọa an ninh của người ta - dù họ ở phương Đông hay phương Tây, phương Bắc hay phương Nam - và gieo rắc sự hoảng sợ, kinh hoàng và bi quan yếm thế, nhưng điều này không phải do tôn giáo, cho dù những kẻ khủng bố vốn biến nó thành công cụ. Đúng hơn, đó là do sự tích lũy các giải thích không chính xác về các bản văn tôn giáo và các chính sách liên quan đến đói, nghèo, bất công, áp bức và tự hào. Đó là lý do tại sao cần phải ngưng việc hỗ trợ các phong trào khủng bố bị thúc đẩy bởi việc tài trợ, cung cấp vũ khí và chiến lược, và bởi các mưu toan biện minh cho các phong trào này, thậm chí sử dụng cả các phương tiện truyền thông. Tất cả những điều này phải được coi là tội ác quốc tế nhằm đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Chủ nghĩa khủng bố như thế phải bị lên án dưới mọi hình thức và biểu thức của nó” [281]. Các xác tín tôn giáo về ý nghĩa thánh thiêng của sự sống con người giúp chúng ta “nhận ra các giá trị nền tảng của nhân tính chung của chúng ta, những giá trị mà nhân danh chúng, chúng ta có thể và phải hợp tác, xây dựng và đối thoại, tha thứ và phát triển; điều này sẽ giúp cho các tiếng nói khác nhau hợp nhất trong việc tạo ra một giai điệu cao quý và đẹp đẽ siêu phàm, thay vì những tiếng kêu thét hận thù cuồng tín” [282].
284. Đôi khi bạo lực duy cực đoan được xổ lồng trong một số nhóm, thuộc bất cứ tôn giáo nào, bởi sự hấp tấp của các nhà lãnh đạo của họ. Tuy nhiên, “điều răn hòa bình được khắc sâu trong các truyền thống tôn giáo mà chúng ta đại diện… Là những nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi trở thành ‘những người đối thoại’ đích thực, hợp tác vào việc xây dựng hòa bình không phải với tư cách là người trung gian mà là những người hòa giải đích thực. Người trung gian tìm cách giảm giá cho mọi người, nhưng cuối cùng là để thu được điều gì đó cho chính họ. Trái lại, người hòa giải là người không giữ lại gì cho mình, nhưng đúng hơn, quảng đại tiêu hao mình đến cùng kiệt, biết rằng điều duy nhất thu được là hòa bình. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành nghệ nhân của hòa bình, bằng cách hợp nhất chứ không chia rẽ, bằng cách dập tắt hận thù chứ không duy trì nó, bằng cách mở ra những nẻo đường đối thoại chứ không phải bằng cách xây dựng những bức tường mới” [283].
Một lời kêu gọi
285. Trong cuộc gặp gỡ huynh đệ của tôi với Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb, một cuộc gặp gỡ mà tôi vui mừng nhớ lại, “chúng tôi kiên quyết [tuyên bố] rằng các tôn giáo không bao giờ được xúi giục chiến tranh, các thái độ thù hận, sự thù địch và chủ nghĩa cực đoan, cũng như không xúi giục bạo lực hoặc đổ máu. Những thực tại bi thảm này là hậu quả của việc đi lệch ra ngoài các giáo huấn tôn giáo. Chúng là kết quả của sự thao túng chính trị đối với các tôn giáo và những diễn giải của các nhóm tôn giáo, trong quá trình lịch sử, từng lợi dụng sức mạnh của tình cảm tôn giáo nơi trái tim những người đàn ông và đàn bà… Thiên Chúa, Đấng Toàn năng, không cần được được bất cứ ai bênh vực và không muốn tên Ngưới bị sử dụng để khủng bố người ta” [284]. Vì lý do này, tôi xin nhắc lại ở đây lời kêu gọi cho hòa bình, công lý và tình huynh đệ mà chúng tôi đã cùng nhau thực hiện:
“Nhân danh Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên mọi con người bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, và đã kêu gọi họ sống với nhau như anh chị em, đổ đầy trái đất và làm mọi người biết đến các giá trị tốt lành, yêu thương và hòa bình;
“Nhân danh mạng sống con người vô tội mà Thiên Chúa vốn cấm giết khi khẳng định rằng ai giết một người thì coi như giết cả nhân loại, ai cứu một người thì coi như cứu cả nhân loại;
“Nhân danh người nghèo, người túng thiếu, người thiệt thòi và những người thiếu thốn nhất, những người mà Thiên Chúa đã truyền cho chúng ta phải giúp đỡ như một bổn phận bắt buộc đối với mọi người, đặc biệt là những người giàu có và những người có phương tiện;
“Nhân danh trẻ mồ côi, góa phụ, người tị nạn và những người bị đày ải khỏi nhà cửa và đất nước của họ; nhân danh tất cả các nạn nhân của chiến tranh, bách hại và bất công; nhân danh kẻ yếu, những người sống trong sợ hãi, các tù nhân chiến tranh và những người bị tra tấn ở bất cứ nơi nào trên thế giới, bất phân biệt;
“Nhân danh những dân tộc đã mất an ninh, hòa bình và khả thể chung sống với nhau, trở thành nạn nhân của sự hủy diệt, thiên tai và chiến tranh;
“Nhân danh tình huynh đệ nhân bản, tình huynh đệ bao gồm mọi hữu thể nhân bản, hợp nhất họ và làm cho họ bình đẳng;
“Nhân danh tình huynh đệ từng bị xé nát bởi các chính sách cực đoan và chia rẽ, bởi các hệ thống lợi nhuận không ai kiềm chế được hoặc bởi các khuynh hướng ý thức hệ thù hận chuyên thao túng các hành động và tương lai của những người đàn ông và đàn bà;
“Nhân danh tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho mọi hữu thể nhân bản, tạo ra họ tự do và đặt họ riêng ra bằng ơn phúc này;
“Nhân danh công lý và lòng thương xót, vốn là các nền tảng của thịnh vượng và đá góc của đức tin;
“Nhân danh mọi người thiện chí hiện diện ở mọi nơi trên thế giới;
“Nhân danh Thiên Chúa và mọi điều đã đề cập trên đây, [chúng tôi] tuyên bố việc chấp nhận nền văn hóa đối thoại làm con đường; hợp tác lẫn nhau làm quy tắc ứng xử; sự hiểu biết lẫn nhau làm phương pháp và tiêu chuẩn” [285].
286. Trong những trang suy tư về tình huynh đệ phổ quát này, tôi cảm thấy được đặc biệt truyền cảm hứng bởi Thánh Phanxicô thành Assisi, nhưng cũng bởi những người anh chị em khác của chúng ta không phải là người Công Giáo: Martin Luther King, Desmond Tutu, Mahatma Gandhi và nhiều người khác. Tuy nhiên, tôi xin kết thúc bằng cách đề cập đến một người khác có đức tin sâu sắc, người, nhờ dựa vào cảm nghiệm mãnh liệt của mình về Thiên Chúa, đã thực hiện một cuộc hành trình biến đổi để cảm nhận mình như người anh em của mọi người. Tôi muốn nói tới Chân phúc Charles de Foucauld.
287. Chân phúc Charles de Foucault đã hướng lý tưởng hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa của mình vào sự đồng nhất hóa với người nghèo, bị bỏ rơi trong thẳm sâu sa mạc Châu Phi. Trong khung cảnh đó, ngài bày tỏ mong muốn được cảm nhận mình như người anh em của mọi người [286], và đã yêu cầu một người bạn “cầu nguyện cùng Thiên Chúa để tôi thực sự là anh em của tất cả mọi người” [287]. Cuối cùng, ngài muốn trở thành “người anh em phổ quát” [288]. Tuy nhiên, chỉ bằng cách đồng nhất hóa với những người nhỏ bé nhất, cuối cùng ngài mới trở thành người anh em của mọi người. Xin Thiên Chúa linh hứng ước mơ đó trong mỗi người chúng ta. Amen.
Lời cầu nguyện với Đấng tạo dựng
Lạy Chúa, Cha của gia đình nhân loại chúng con,
Cha đã tạo dựng mọi hửu thể nhân bản bình đẳng về phẩm giá:
tuôn đổ vào tâm hồn chúng con một tinh thần huynh đệ
và linh hứng nơi chúng con một giấc mơ gặp gỡ đổi mới,
đối thoại, công lý và hòa bình.
Xin Cha thúc đẩy chúng con tạo ra các xã hội lành mạnh hơn
và một thế giới xứng đáng hơn,
một thế giới không có đói, nghèo, bạo lực và chiến tranh.
Xin cho trái tim chúng con cởi mở đối với mọi dân tộc và các quốc gia trên trái đất.
Xin cho chúng con nhận biết sự tốt lành và vẻ đẹp mà Cha đã gieo nơi mỗi người chúng con,
và do đó tạo nên mối dây hợp nhất, các dự án chung,
và các giấc mơ chung. Amen.
Một lời cầu nguyện đại kết Kitô giáo
Lạy Thiên Chúa, Ba Ngôi tình yêu,
từ sự hiệp thông sâu sắc của sự sống thần thiêng của Chúa,
xin tuôn đổ trên chúng con suối lượng tình yêu huynh đệ.
Xin ban cho chúng con tình yêu phản ảnh trong các hành động của Chúa Giêsu,
trong gia đình Nadarét của Người,
và trong cộng đồng Kitô giáo tiên khởi.
Xin ban ơn để Kitô hữu chúng con biết sống theo Tin Mừng,
khám phá ra Chúa Kitô trong mỗi hữu thể nhân bản,
nhận ra Người bị đóng đinh
trong những đau khổ của những người bị bỏ rơi
và bị lãng quên trong thế giới của chúng con,
và sống lại trong mỗi anh chị em
đang thực hiện một khởi đầu mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến chỉ cho chúng con thấy vẻ đẹp của Chúa,
phản ảnh trong mọi dân tộc trên trái đất,
để chúng con có thể khám phá lại điều này là mọi người đều quan trọng và đều cần thiết,
những khuôn mặt khác nhau của một nhân loại được Thiên Chúa rất yêu thương. Amen.
Ban hành tại Assisi, tại mộ của Thánh Phanxicô, vào ngày 3 tháng 10, Vọng Lễ của Thánh Nhân, năm 2020, năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
Franciscus
Kỳ tới: Toàn bộ các ghi chú
Toàn văn Thông điệp Fratelli Tutti, toàn bộ ghi chú
[1] Admonitions, 6, 1. Bản tiếng Anh trong Francis of Assisi: Early Documents, vol 1., New York, London, Manila (1999), 131.
[2] Đã dẫn, 25: tài liệu đã dẫn, 136.
[3] Thánh Phanxicô thành ASSISI, Earlier Rule of the Friars Minor (Regula non bullata), 16: 3.6: tài liệu đã dẫn 74.
[4] ELOI LECLERC, O.F.M., Exil et tendresse, Éd. Franciscaines, Paris, 1962, 205.
[5] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[6] Diễn văn Tại Cuộc Gặp gỡ Đại kết và Liên tôn với Người Trẻ, Skopje, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 9 Tháng 5 2019, p. 9.
[7] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 996.
[8] Gặp Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn, Santiago, Chile (16 Tháng 1 2018): AAS 110 (2018), 256.
[9] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[10] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus vivit (25 Tháng 3 2019), 181.
[11] Đức Hồng Y RAÚL SILVA HENRÍQUEZ, Homily at the Te Deum, Santiago de Chile (18 Tháng 9 1974).
[12] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 57: AAS 107 (2015), 869.
[13] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 120.
[14] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 83-84.
[15] Xem Diễn văn với Qũy “Centesimus Annus pro Pontifice” (25 Tháng 5 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 238.
[16] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 264.
[17] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 22: AAS 101 (2009), 657.
[18] Diễn văn với nhà Cầm quyền Dân sự, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): AAS 106 (2014), 773.
[19] Diễn văn với Các Tham dự viên Hội Nghị Quôc Tế “Nhân quyền trong Thế giơí Ngày nay: Các thành tựu, Bỏ sót, Bác bỏ” (10 Tháng 12 2018): L’Osservatore Romano, 10-11 Tháng 12 2018, p. 8.
[20] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 212: AAS 105 (2013), 1108.
[21] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015 (8 Tháng 12 2014), 3-4: AAS 107 (2015), 69-71.
[22] Đã dẫn, 5: AAS 107 (2015), 72.
[23] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2016 (8 Tháng 12 2015), 2: AAS 108 (2016), 49.
[24] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2020 (8 Tháng 12 2019), 1: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[25] Diễn văn về Vũ khí Nguyên tử, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, p. 6.
[26] Đối thoại với các Học sinh và Giáo viên Trường San Carlo ở Milan (6 Tháng 4 2019): L’Osservatore Romano, 8-9 Tháng 4 2019, p. 6.
[27] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[28] Diễn văn với Thế giới văn hóa, Cagliari, Italy (22 Tháng 9 2013): L’Osservatore Romano, 23-24 Tháng 9 2013, p. 7.
[29] Humana Communitas. Thư gửi Chủ tịch Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sư Sống dịp Kỷ niệm 25 thành lập (6 Tháng 1 2019), 2.6: L’Osservatore Romano, 16 Tháng 1 2019, pp. 6-7.
[30] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[31] Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10.
[32] Bài giảng lễ, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 8 Tháng 5 2019, p. 12.
[33] Xem Aeneid 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt”.
[34] “Historia… magistra vitae” (CICERO, De Oratore, 2, 6).
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 204: AAS 107 (2015), 928.
[36] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 91.
[37]Đã dẫn, 92.
[38] Đã dẫn, 93.
[39] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2013, (12 Tháng 10 2012): AAS 104 (2012), 908.
[40] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 92.
[41] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2020 (13 Tháng 5 2020): L’Osservatore Romano, 16 Tháng 5 2020, p. 8.
[42] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 124.
[43] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 84.
[44] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 123.
[45] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2019 (27 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 27-28 Tháng 5 2019, p. 8.
[46] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 88.
[47] Đã dẫn, 89.
[48] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 Tháng 3 2018), 115.
[49] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, by Wim Wenders (2018).
[50] Diễn văn với Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn Tallinn, Estonia (25 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 9 2018, p. 7.
[51] Xem Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10; Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người Nghèo (13 Tháng 6 2020), 6: L’Osservatore Romano, 14 Tháng 6 2020, p. 8.
[52] Chào mừng Người Trẻ tại Trung tâm văn hóa Padre Félix Varela, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L’Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, p. 6.
[53] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 1.
[54] Thánh Irênê thành Lyons, Adversus Haereses, II, 25, 2: PG 7/1, 798ff.
[55] Talmud Bavli (Babylonian Talmud), Shabbat, 31a.
[56] Diễn văn với Những Người được Các Công trình Bác ái của Giáo Hội giúp đỡ, Tallinn, Estonia (25 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 9 2018, p. 8.
[57] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017):L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[58] Homiliae in Matthaeum, 50: 3-4: PG 58, 508.
[59] Thông điệp gửi Cuộc Gặp gỡ của Các Phong trào Bình dân, Modesto, California, USA (10 Tháng 2 2017): AAS 109 (2017), 291.
[60] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 235: AAS 105 (2013), 1115.
[61] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi Những Người Khuyết Tật, buổi Đọc Kinh Sai Thiên Thần tại Osnabrück, Germany (16 Tháng 11 1980): Insegnamenti III, 2 (1980), 1232.
[62] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 24.
[63] Gabriel Marcel, Du refus à l’invocation, ed. NRF, Paris, 1940, 50.
[64] Buổi Đọc Kinh Truyền Tin(10 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 11-12 Tháng 11 2019, 8.
[65] Xem Thánh Tôma Aquinô: Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, q. 1, a. 1, ad 4: “Dicitur amor extasim facere et fervere, quia quod fervet extra se bullit et exhalat”.
[66] Karol Wojtyła, Love and Responsibility, London, 1982, 126.
[67] Karl Rahner, Kleines Kirchenjahr. Ein Gang durch den Festkreis, Herderbücherei 901, Freiburg, 1981, 30.
[68] Luật Dòng, 53, 15: “Pauperum et peregrinorum maxime susceptioni cura sollicite exhibeatur”.
[69] Xem Summa Theologiae, II-II, q. 23, a. 7; Thánh Tháng 8 inô, Contra Julianum, 4, 18: PL 44, 748: “How many pleasures do misers forego, either to increase their treasures or for fear of seeing them diminish!”.
[70] “Secundum acceptionem divinam” (Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, a. 1, q. 1, concl. 4).
[71] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 Tháng 12 2005), 15: AAS 98 (2006), 230.
[72] Summa Theologiae II-II, q. 27, a. 2, resp.
[73] CfĐã dẫn, I-II, q. 26, a. 3, resp.
[74] Đã dẫn, q. 110, a. 1, resp.
[75] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2014 (8 Tháng 12 2013), 1: AAS 106 (2014), 22.
[76] Xem Kinh Truyền tin (29 Tháng 12 2013): L’Osservatore Romano, 30-31 Tháng 12 2013, p. 7; Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh (12 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 165.
[77] Thông điệp nhân Ngày Người Khuyết Tật Thế giới (3 Tháng 12 2019): L’Osservatore Romano, 4 Tháng 12 2019, 7.
[78] Diễn văn với Cuộc Gặp gỡ về Tự do Tôn giáo với Cộng đồng Nói tiếng Tây Ban Nha và các Nhóm Di dân, Philadelphia, Pennsylvania, United States of America (26 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1050-1051.
[79] Diễn văn với Giới trẻ, Tokyo, Japan (25 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 10.
[80] Trong các xem xét này, tôi được gợi hứng bời tư tưởng của Paul Ricoeur, “Le socius et le prochain”, trong Histoire et Verité, ed. Le Seuil, Paris, 1967, 113-127.
[81] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 190: AAS 105 (2013), 1100.
[82] Đã dẫn, 209: AAS 105 (2013), 1107.
[83] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[84] Thông điệp gửi cho Biến cố “Economy of Francesco” (1 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 12 Tháng 5 2019, 8.
[85] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 997.
86] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 229: AAS 107 (2015), 937.
[87] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2016 (8 Tháng 12 2015), 6: AAS 108 (2016), 57-58.
[88] “Vững chắc” (Solidity) về từ nguyên có liên hệ với “liên đới” (solidarity). Liên đới, trong nghĩa đạo đức học chính trị mà nó mặc lấy trong 2 thế kỷ vừa qua, đem lại tác động an toàn và chắc chắn.
[89] Bài Giảng lễ, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L’Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, 8.
[90] Diễn văn với Các Tham dự viên cuộc gặp gỡ các Phong trào Bình dạn (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[91] Xem Thánh Basil, Homilia XXI, Quod rebus mundanis adhaerendum non sit, 3.5: PG 31, 545-549; Regulae brevius tractatae, 92: PG 31, 1145-1148; Thánh Peter Chrysologus, Sermo 123: PL 52, 536-540; Thánh Ambrose, De Nabuthe, 27.52: PL 14, 738ff.; Thánh Augustinô, In Iohannis Evangelium, 6, 25: PL 35, 1436ff.
[92] De Lazaro Concio, II, 6: PG 48, 992D.
[93] Regula Pastoralis, III, 21: PL 77, 87.
[94] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 31: AAS 83 (1991), 831.
[95] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884.
[96] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14 Tháng 9 1981), 19: AAS 73 (1981), 626.
[97] Cf. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyền Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 172.
[98] Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 268.
[99] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 Tháng 12 1987), 33: AAS 80 (1988), 557.
[100] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 95: AAS 107 (2015), 885.
[101] Đã dẫn, 129: AAS 107 (2015), 899.
[102] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 265; Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 16: AAS 101 (2009), 652.
[103] Xem Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884-885; Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 189-190: AAS 105 (2013), 1099-1100.
[104] Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Thư Mục vụ chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Open Wide Our Hearts: The Enduring Call to Love (Tháng 11 2018).
[105] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 51: AAS 107 (2015), 867.
[106] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 6: AAS 101 (2009), 644.
[107] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 35: AAS 83 (1991), 838.
[108] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 6.
[109] Xem Hội Đồng Giám Mục Mễ tây cơ và Hoa kỳ, A Pastoral Letter Concerning Migration: “Strangers No Longer Together on the Journey of Hope” (Tháng 1 2003).
[110] Yết kiến chung (3 Tháng 4 2019): L’Osservatore Romano, 4 Tháng 4 2019, p. 8.
[111] Xem Thông điệp nhân ngày Di dân và Tịn nạn Thế giới năm 2018 (14 Tháng 1 2018): AAS 109 (2017), 918-923.
112] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[113] Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh, 11 Tháng 1 2016: AAS 108 (2016), 124.
[114] Đã dẫn, 122.
[115] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 93.
[116] Đã dẫn, 94.
[117] Diễn văn với Nhà cầm quyền, Sarajevo, Bosnia và Herzegovina (6 Tháng 6 2015): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 6 2015, p. 7.
[118] Latinoamérica. Conversaciones con Hernán Reyes Alcaide, ed. Planeta, Buenos Aires, 2017, 105.
[119] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[120] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 67: AAS 101 (2009), 700.
[121] Đã dẫn, 60: AAS 101 (2009), 695.
[122] Đã dẫn, 67: AAS 101 (2009), 700.
[123] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 447.
[124] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 234: AAS 105 (2013), 1115.
[125] Đã dẫn, 235: AAS 105 (2013), 1115.
[126] Đã dẫn
[127] Thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn với Các Đại diện văn hóa Argentina, Buenos Aires, Argentina (12 Tháng 4 1987), 4: L’Osservatore Romano, 14 Tháng 4 1987, p. 7.
[128] Xem Đã dẫn., Diễn văn với Giáo Triều Rôma (21 Tháng 12 1984), 4: AAS 76 (1984), 506.
[129] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 37.
[130] GEORG SIMMEL, Brücke und Tür. Essays des Philosophen zur Geschichte, Religion, Kunst und Gesellschaft, ed. Michael Landmann, Köhler-Verlag, Stuttgart, 1957, 6.
[131] Xem JAIME HOYOS-VÁSQUEZ, S.J., “Lógica de las relaciones sociales. Reflexión onto-lógica”, Revista Universitas Philosophica, 15-16 (Tháng 12 1990-Tháng 6 1991), Bogotá, 95-106.
[132] ANTONIO SPADARO, S.J., Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco, trong JORGE MARIO BERGOLIO – PAPA FRANCESCO, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013, Rizzoli, Milan 2016, XVI; xem Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 220-221: AAS 105 (2013), 1110-1111.
[133] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 204: AAS 105 (2013), 1106.
[134] Xem Đã dẫn: AAS 105 (2013), 1105-1106.
[135] Đã dẫn, 202: AAS 105 (2013), 1105.
[136] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[137] Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh (12 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 165; cf. Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 851-859.
[138] Điểm tương tự cũng có thể đưa ra cho phạm trù Kinh Thánh Nước Thiên Chúa.
[139] PAUL RICOEUR, Histoire et Verité, ed. Le Seuil Paris, 1967, 122.
[140] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[141] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 35: AAS 101 (2009), 670.
[142] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 858.
[143] Đã dẫn.
[144] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (5 Tháng 11 2016): L’Osservatore Romano, 7-8 Tháng 11 2016, pp. 4-5.
[145] Đã dẫn.
[146] Đã dẫn.
[147] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[148] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1037.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 175: AAS 107 (2015), 916-917.
[150] Cf. BENEDICT XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 67: AAS 101 (2009), 700-701.
[151] Đã dẫn: AAS 101 (2009), 700.
[152] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 434.
[153] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1037, 1041.
[154] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 437.
[155] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2004, 5: AAS 96 (2004), 117.
[156] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 439.
[157] Xem Ủy Ban Xã hội của Hội Đồng Giám Mục Pháp, Tuyên ngôn Réhabiliter la Politique (17 Tháng 2 1999).
[158] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[159] Đã dẫn, 196: AAS 107 (2015), 925.
[160] Đã dẫn, 197: AAS 107 (2015), 925.
[161] Đã dẫn, 181: AAS 107 (2015), 919.
[162] Đã dẫn, 178: AAS 107 (2015), 918.
[163] Hội Đồng Giám Mục Bồ đào nha, Thư Mục vụ Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 Tháng 9 2003), 20; cf. Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 159: AAS 107 (2015), 911.
[164] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 191: AAS 107 (2015), 923.
[165] Đức Piô XI, Diễn văn với Liên Đoàn Sinh viên Đại Học Công Giáo Ý (18 Tháng 12 1927): L’Osservatore Romano, 23 Tháng 12 1927, p. 3.
[166] Xem Đã dẫn, Thông điệp Quadragesimo Anno (15 Tháng 5 1931): AAS 23 (1931), 206-207.
[167] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 205: AAS 105 (2013), 1106
[168] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[169] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[170] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[171] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 207.
[172] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor Hominis (4 Tháng 3 1979), 15: AAS 71 (1979), 288.
[173] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967), 44: AAS 59 (1967), 279.
[174] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 207.
[175] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[176] Đã dẫn, 3: AAS 101 (2009), 643.
[177] Đã dẫn, 4: AAS 101 (2009), 643.
[178] Đã dẫn.
[179] Đã dẫn, 3: AAS 101 (2009), 643.
[180] Đã dẫn: AAS 101 (2009), 642.
[181] Theo giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô, tín lý luân lý Công Giáo phân biệt giữa các hành vi “được luận ra” (elicited) và “được truyền lệnh” (commanded); xem Summa Theologiae, I-II, qq. 8-17; M. ZALBA, S.J., Theologiae Moralis Summa. Theologia Moralis Fundamentalis. Tractatus de Virtutibus Theologicis, ed. BAC, Madrid, 1952, vol. I, 69; A. ROYO MARÍN, Teología de la Perfección Cristiana, ed. BAC, Madrid, 1962, 192-196.
[182] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 208.
[183] Xem Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 Tháng 12 1987), 42: AAS 80 (1988), 572-574; Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 11: AAS 83 (1991), 806-807.
[184] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 852.
185] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 999.
[186] Diễn văn tại cuộc Gặp gỡ với Nhà Cầm quyền và Ngoại giao đoàn tại Công Hòa Trung Phi, Bangui (29 Tháng 11 2015): AAS 107 (2015), 1320.
[187] Diễn văn với Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1039.
[188] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 853.
[189] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[190] RENÉ VOILLAUME, Frères de tous, ed. Cerf, Paris, 1968, 12-13.
[191] Thông điệp Video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[192] Yết kiến chung (18 Tháng 2 2015): L’Osservatore Romano, 19 Tháng 2 2015, p. 8.
[193] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 274: AAS 105 (2013), 1130.
[194] Đã dẫn, 279: AAS 105 (2013), 1132.
[195] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2019 (8 Tháng 12 2018), 5: L’Osservatore Romano, 19 Tháng 12 2018, p. 8.
[196] Gặp gỡ Các Nhà Lãnh đạo chính trị, Kinh tế và văn hóa Ba Tây, Rio de Janeiro, Brazil (27 Tháng 7 2013): AAS 105 (2013), 683-684.
[197] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 108.
[198] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, by Wim Wenders (2018).
[199] Thông điệp nhân ngày Truyền thông Thế giới (24 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 113.
[200] Hội Đồng Giám Mục Úc, Ủy ban Công lý, Sứ mệnh và Phục vụ Xã hội, Making It Real: Genuine Human Encounter in Our Digital World (Tháng 11 2019).
[201] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 123: AAS 107 (2015), 896.
[202] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (6 Tháng 8 1993), 96: AAS 85 (1993), 1209.
[203] Là các Kitô hữu, chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn thánh của Người giúp chúng ta hành động như anh chị em.
[204] VINICIUS DE MORAES, Samba da Benção, từ cuốn băng Um encontro no Au bon Gourmet, Rio de Janeiro (2 Tháng 8 1962).
[205] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[206] Đã dẫn, 236: AAS 105 (2013), 1115.
[207] Đã dẫn, 218: AAS 105 (2013), 1110.
[208] Tông huấn Amoris Laetitia (19 Tháng 3 2016), 100: AAS 108 (2016), 351.
[209] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 2: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[210] Hội Đồng Giám Mục Congo, Thông điệp gửi Dân Chúa và Những người đàn ông và đàn bà có thiện chí (9 Tháng 5 2018).
[211] Diễn văn tại Cuộc Gặp Gỡ Hòa Giải Quốc Gia, Villavicencio, Colombia (8 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1063-1064, 1066.
[212] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 3: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[213] Hội Đồng Giám Mục Nam Phi, Pastoral Letter on Christian Hope in the Current Crisis (Tháng 5 1986).
[214] Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn, Appeal of the Catholic Church in Korea for Peace on the Korean Peninsula (15 Tháng 8 2017).
[215] Gặp gỡ Các Nhà Lãnh đạo Chính trị, Kinh tế và Dân sự, Quito, Ecuador (7 Tháng 7 2015): L’Osservatore Romano, 9 Tháng 7 2015, p. 9.
[216] Cuộc gặp gỡ Liên tôn với giới trẻ, Maputo, Mozambique (5 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 6 Tháng 9 2019, p. 7.
[217] Bài giảng lễ, Cartagena de Indias, Colombia (10 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1086.
[218] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Bogotá, Colombia (7 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1029.
[219] Hội Đồng Giám Mục Colombia, Por el bien de Colombia: diálogo, reconciliación y desarrollo integral (26 Tháng 11 2019), 4.
[220] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Maputo, Mozambique (5 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 6 Tháng 9 2019, p. 6.
[221] Hội nghị Toàn thể lần thứ năm các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caribbean, Aparecida Document (29 Tháng 6 2007), 398.
[222] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 59: AAS 105 (2013), 1044.
[223] Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 14: AAS 83 (1991), 810.
[224] Bài giảng trong Thánh lễ cầu cho Tiến bộ Các Dân tộc, Maputo, Mozambique (6 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 9 2019, p. 8.
[225] Nghi thức tiếp đón, Colombo, Sri Lanka (13 Tháng 1 2015): L’Osservatore Romano, 14 Tháng 1 2015, p. 7.
[226] Gặp gỡ Các Trẻ em của “Trung tâm Bethany” và Đại diện Các Trung tâm Bác ái của Albania, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): Insegnamenti II, 2 (2014), 288.
[227] Thông điệp Video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[228] Đức Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno (15 Tháng 5 1931): AAS 23 (1931), 213.
[229] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 228: AAS 105 (2013), 1113.
[230] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Riga, Latvia (24 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 24-25 Tháng 9 2018, p. 7.
[231] Nghi thức tiếp đón, Tel Aviv, Israel (25 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 604.
[232] Viếng Đài Kỷ niệm Yad Vashem, Jerusalem (26 Tháng 5 2014): AAS 106 (2014), 228.
[233] Diễn văn tại Đài Kỷ niệm Hòa bình, Hiroshima, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, p. 8.
[234] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 2: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[235] Hội Đồng Giám Mục Croatia, Letter on the Fiftieth Anniversary of the End of the Second World War (1 Tháng 5 1995).
[236] Bài Giảng lễ, Amman, Jordan (24 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 593.
[237] Cf. Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 1: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[238] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1041-1042.
[239] No. 2309.
[240] Đã dẫn.
[241] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 104: AAS 107 (2015), 888.
[242] Thánh Augustinô, người đã sáng chế ra ý niệm “chiến tranh chính đáng” mà chúng ta không còn duy trì thời nay nữa, cũng nói rằng “Vinh quang hơn vẫn là duy trì chiến tranh bằng lời nói, hơn là sát hại con người bằng gươm giáo, và cung cấp hoặc duy trì hòa bình bằng hòa bình, chứ không bằng chiến tranh” (Epistola 229, 2: PL 33, 1020).
[243] Thông điệp Pacem in Terris (11 Tháng 4 1963): AAS 55 (1963), 291.
[244] Thông điệp gửi Hội nghị Liên Hiệp Quốc thương thảo tìm ra phương thế trói buộc hợp pháp để ngăn cấm vũ khí hạt nhân (23 Tháng 3 2017): AAS 109 (2017), 394-396.
[245] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 282.
[246] Xem Thông điệp Evangelium Vitae (25 Tháng 3 1995), 56: AAS 87 (1995), 463-464.
[247] Diễn văn nhân Kỷ niệm năm thứ 25 ngày công bố Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (11 Tháng 10 2017): AAS 109 (2017), 1196.
[248] Xem Bộ Giáo Lý Đức tin, Letter to the Bishops Regarding the Revision of No. 2267 of the Catechism of the Catholic Church on the Death Penalty (1 Tháng 8 2018): L’Osservatore Romano, 3 Tháng 8 2018, p. 8.
[249] Diễn văn với các Đại biểu Hiệp hội Hình luật Quốc tế (23 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 840.
[250] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 402.
[251] Thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn với Hiệp hội Thẩm phán Quốc gia (31 Tháng 3 2000), 4: AAS 92 (2000), 633.
[252] Divinae Institutiones VI, 20, 17: PL 6, 708.
[253] Epistola 97 (Responsa ad consulta Bulgarorum), 25: PL 119, 991. “ipsi (Christo) non solum innoxios quosque, verum etiam et noxios a mortis exitio satagite cunctos eruere…”.
[254] Epistola ad Marcellinum 133, 1.2: PL 33, 509.
[255] Diễn văn với các Đại biểu Hiệp hội Hình luật Quốc tế (23 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 840-841.
[256] Đã dẫn, 842.
[257] Đã dẫn.
[258] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (25 Tháng 3 1995), 9: AAS 87 (1995), 411.
[259] Hội Đồng Giám Mục Ấn độ, Response of the Church in India to the Present-day Challenges (9 Tháng 3 2016).
[260] Bài giảng trong Thánh Lễ tại Nhà Thánh Martha (17 Tháng 5 2020).
[261] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[262] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 44: AAS 83 (1991), 849.
[263] Diễn văn với Các Nhà Lãnh đạo Tôn giáo Khác và Các Tín phái Kitô giáo khác, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): Insegnamenti II, 2 (2014), 277.
[264] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[265] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 256: AAS 105 (2013), 1123.
[266] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 Tháng 12 2005), 28: AAS 98 (2006), 240.
[267] “Con người là một con vật chính trị”, ARISTOTLE, Politics, 1253a 1-3.
[268] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 11: AAS 101 (2009), 648.
[269] Diễn văn với Cộng đồng Công Giáo, Rakovski, Bulgaria (6 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 8 Tháng 5 2019, p. 9.
[270] Bài giảng lễ, Santiago de Cuba (22 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1005.
[271] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn về Mối Liên hệ của Giáo Hội với các Tôn giáo không phải Kitô giáo, Nostra Aetate, 2.
[272] Buổi cầu nguyện đại kết Riga, Latvia (24 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 24-25 Tháng 9 2018, p. 8.
[273] Lectio Divina, Pontifical Lateran University, Rome (26 Tháng 3 2019): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 3 2019, p. 10.
[274] Thánh Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam Suam (6 Tháng 8 1964): AAS 56 (1964), 650.
[275] Diễn văn với Nhà Cầm quyền Dân sự, Bethlehem, Palestine (25 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 597.
[276] Enarrationes in Psalmos, 130, 6: PL 37, 1707.
[277] Tuyên bố chung của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Thượng phụ Đại kết, Jerusalem (25 Tháng 5 2014), 5: L’Osservatore Romano, 26-27 Tháng 5 2014, p. 6.
[278] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, của Wim Wenders (2018).
[279] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 106.
[280] Bài giảng lễ, Colombo, Sri Lanka (14 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 139.
[281] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[282] Diễn văn với Nhà Cầm quyền Dân sự, Sarajevo, Bosnia-Herzegovina (6 Tháng 6 2015): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 6 2015, p. 7.
[283] Diễn văn với Hội nghị Quốc tế về Hòa bình do cộng đồng Sant’Egidio tổ chức (30 Tháng 9 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 301-302.
[284] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[285] Đã dẫn.
[286] Xem CHARLES DE FOUCAULD, Méditation sur le Notre Père (23 Tháng 1 1897).
[287] Letter to Henry de Castries (29 Tháng 11 1901).
[288] Letter to Madame de Bondy (7 Tháng 1 1902). Thánh Phaolô VI dùng các lời này để ca ngợi việc dấn thân của bà: Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 263.