CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B

Ông Giô-xếp hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải liệm Người lại. (Mc 15,46)

24/03/2024
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B

cn lela b

Mc 14,1-15,47

CUỘC KHỔ NẠN KÉO DÀI
Ông Giô-xếp hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải liệm Người lại. (Mc 15,46)

Suy niệm: “Lạy Chúa, xin hãy đánh mạnh vào tận cội rễ sự ti tiện trong quả tim con… Xin ban cho con sức mạnh để con không tước đoạt của cải người nghèo cũng như không quỳ gối trước quyền lực ngạo nghễ” (R. Tagore). Hai cám dỗ của thi sĩ cũng là của mọi người, nhất là trong xã hội hôm nay. Người Ki-tô hữu được kêu mời nhận ra Đức Ki-tô đang tiếp tục hấp hối trên thánh giá nơi người đau khổ, những kẻ được Ngài yêu thương cách đặc biệt. Tựa như Giô-xếp, ta cũng cần đưa người nghèo có tên chung là “Giê-su” xuống khỏi thập giá nơi họ đang bị đóng đinh. Hình tượng những người lính bắt thăm, đánh bạc để lấy chiếc áo Đức Giê-su ngay dưới chân thập giá cũng có thể tiêu biểu cho các Ki-tô hữu hôm nay, khi ta mãi lo “cá cược” đời mình trong cuộc sống vật chất, ngay trước Khổ Nạn kéo dài của Thầy mình trong người anh em.
 

Mời Bạn: Hướng đến cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su trong suốt Tuần Thánh này. Mời bạn chiêm ngắm tình yêu đến cùng của Ngài qua những đau khổ kinh khủng nơi thân xác (đánh đòn, mão gai, đóng đinh, treo trên thập giá…) cũng như những nỗi đau hằn sâu trong tâm hồn (bị bỏ rơi, phản bội, nhạo báng, xa cách Thiên Chúa do hậu quả tội lỗi…).
 

Chia sẻ: Tại sao Chúa lại sẵn sàng chịu những đau khổ khủng khiếp như vậy?
 

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ sống một tuần Thánh tốt đẹp qua những hy sinh, cố gắng nỗ lực hết mình.
 

Cầu nguyện: Lạy Cha, ước gì thánh giá nên mẫu gương cho chúng con, là ánh sáng trong đêm tăm tối, nhờ đó, chúng con không coi khổ đau như tai hoạ hay điều vô lý, nhưng là dấu chỉ cho thấy chúng con thuộc về Cha mãi mãi.

CN LỄ LÁ: Lạy Chúa! Chúa đã đi vào Cuộc Khổ Nạn. Bóng tối thập giá bao trùm cả không gian. Bóng tối là năng lượng trái đất, ánh sáng là năng lượng mặt trời. Sự giao hòa giữa trời và đất, sáng và tối là một mầu nhiệm. Ánh sáng mang chúng con vào thế giới ngoại vi, với những công việc hằng ngày. Bóng tối mang chúng con ra khỏi thế giới để được nghỉ ngơi trong Chúa. Xin cho chúng con sống tâm tình sám hối Mùa Chay bằng cách: biết phát hiện ra những vùng tối nơi sâu kín lòng mình, để xin Chúa chiếu soi, gột rửa, hầu chúng con có thể chuẩn bị tâm hồn sốt sắng bước vào những ngày thánh như lòng Chúa ước mong. Amen.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB


 

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật Lễ Lá -Năm B

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến! Cùng với Hội Thánh, hôm nay người tín hữu bước vào Tuần Thánh, mở đầu bằng Chúa Nhật lễ lá: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chứng đi theo và hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành. Nhưng Chúa Giêsu lại không đáp ứng sự mong đợi của người Do Thái về một vị vua trần thế, Người lại chọn thái độ khiêm nhu, hiền hòa của một vị vua mục tử bằng việc ngồi trên lưng lừa thay vì trên ngựa chiến. Chúa Giêsu chính là người tôi tớ đau khổ của Gia vê. Người đến không đòi người ta phục vụ, mà là để phục vụ. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đồ. Người thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể, để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta, và sẵn sàng hi sinh mạng sống, chấp nhận chết đau thương trên Thập Giá, để đền tội thay cho nhân loại, và sống lại để ban sự sống muôn đời cho chúng ta. Trong tâm tình biết ơn, chúng ta cùng tham dự Thánh Lễ, nhưng để xứng đáng, chúng ta cùng thành tâm hối lỗi.

NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM CHÚA VÀO GIÊ-RU-SA-LEM

(1) Linh mục chào giáo dân như thường lệ; nói ít lời với giáo dân hoặc:

Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp nơi đây, để cùng toàn thể Giáo Hội khai mạc tuần thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua, tức là cuộc thương khó và Phục Sinh của Ðức Ki-tô. Ðể chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt mùa chay, chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau.

Chúa nhật lễ lá hôm nay là ngày kỷ niệm Ðấng Cứu Thế vào thành thánh Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại cho loài người ơn cứu độ, chúng ta hãy đem cả niềm tin mà hăng hái bước theo Người. Xin Người ban ơn để chúng ta thông phần đau khổ Người đã chịu trên thập Giá, hầu được chia sẻ vinh quang Phục Sinh và sự sống của Người.

(2) Linh mục đọc một trong hai lời nguyện sau đây:

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin thánh X hiến những cành lá này, để chúng con cầm mà hoan nghênh Ðức Giêsu là Vua chúng con. Xin ban cho mọi người chúng con đây là tín hữu Chúa được theo Người vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vĩnh cửu. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Hoặc:

Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin cho chúng con là những kẻ cậy trông vào Chúa. giờ đây chúng con cầm những cành lá này, nghênh đón Ðức Ki-tô khải hoàn vinh hiển. Xin Chúa thương nhận lời và ban cho chúng con được sống kết hợp với Người như cành liền cây hầu sinh hoa kết quả. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

(3) Linh mục thinh lặng rảy nước thánh trên lá. phát lá;

Công bố Tin Mừng:

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”

Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!”

Ðó là lời Chúa.

(4) Sau Tin Mừng, tùy nghi giảng vắn tắt. Ðể bắt đầu cuộc rước chủ tế kêu gọi:

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy noi gương dân thành Giê-ru-sa-lem mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Ðức Ki-tô.

(5) Thứ tự: người cầm hương; thánh giá có gắn lá; Linh mục và giúp lễ; giáo dân tay cầm lá.

Hình thức thứ hai: Nhập lễ trọng thể

Giáo dân cầm cành lá trong tay tụ họp ngoài hay trong chính nhà thờ. Chủ tế, giúp lễ và đại diện giáo dân đến một nơi đã dọn sẵn ngoài cung thánh. (14) Ðang khi ấy hát Hoan hô Thái Tử… Rồi làm phép lá, công bố Tin Mừng; sau đó tiến lên cung thánh cách trọng thể, trong khi ấy hát “xưa Chúa vào thành thánh…”

Tới bàn thờ, chủ tế tuỳ nghi xông hương. Ðọc lời nguyện nhập lễ, tiếp tục như thường.

Hình thức thứ ba: Nhập lễ đơn giản

Như thường lệ

THÁNH LỄ

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, xin mau cứu giúp tôi, xin kíp bảo vệ tôi. Xin cứu tôi thoát hàm sư tử, và giữ mạng sống yếu hèn tôi khỏi sừng tê giác.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? 

Xướng: Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

Xướng: Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

Xướng: Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

Xướng: Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Mc 14, 1 – 15. 47 (bài dài)

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.

Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:

S. “Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân”.

C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

J. “Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà”.

C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:

S. “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?”

C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:

J. “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”.

C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.

Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:

J. “Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta”.

C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:

S. “Thưa Thầy, có phải con không?”

C. Người đáp:

J. “Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.

C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:

J. “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”.

C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:

J. “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”.

C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:

J. “Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.

C. Phêrô thưa Người:

S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không”.

C. Chúa Giêsu bảo ông:

J. “Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần”.

C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:

S. “Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy”.

C. Và tất cả đều nói như vậy.

Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:

J. “Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện”.

C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:

J. “Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức”.

C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:

J. “Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha”.

C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:

J. “Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối”.

C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:

J. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi”.

C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:

S. “Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận”.

C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:

S. “Chào Thầy”.

C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:

J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”.

C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.

Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:

S. “Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra”.

C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:

S. “Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông”.

C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:

S. “Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây”.

C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:

S. “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?”

C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:

S. “Hãy đoán xem!”

C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.

Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:

S. “Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét”.

C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:

S. “Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì”.

C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:

S. “Ông này thuộc bọn đó”.

C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:

S. “Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa”.

C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:

S. “Tôi không biết người mà các ông nói đó”.

C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: “Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần”. Và ông liền than khóc.

Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!”

C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?”

C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?”

C. Nhưng chúng lại kêu lên:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Philatô đáp lại:

S. “Người này đã làm gì nên tội?”

C. Song chúng càng la to hơn:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

S. “Tâu Vua dân Do-thái”.

C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

S. “Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”

C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

J. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

S. “Kìa, nó gọi Elia!”

C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?”

C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”

C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.

Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chết thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.


Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39

C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!”

C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?”

C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?”

C. Nhưng chúng lại kêu lên:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Philatô đáp lại:

S. “Người này đã làm gì nên tội?”

C. Song chúng càng la to hơn:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

S. “Tâu Vua dân Do-thái”.

C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

S. “Kìa! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”

C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

J. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

S. “Kìa, nó gọi Elia!”

C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?”

C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”

Lời nguyện tín hữu

Chủ sự: Anh chị em thân mến! Tuần thánh tóm kết con đường Đức Kitô đi, và thực hiện ơn cứu chuộc nhân loại, chúng ta cùng bước theo Người và dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin :

1. “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn, tôi trơ mặt chai như đá”,- Xin cho các vị Chủ chăn, biết vui vẻ đón nhận những lời lăng mạ, xỉ nhục của người đời như máng chuyển ơn cho các tâm hồn, theo gương nhịn nhục của Đức Kitô.

2. “Khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất…phải qùi gối”.- Xin cho các nhà lãnh đạo quôc gia biết suy phục Thiên Chúa là Chúa tể muôn loài, và Đức Kitô là Đấng Thiên Sai duy nhất, để đất nước được hạnh phúc và bình an.

3. “Hãy để mặc bà, bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt”.- Xin cho mọi thành phần dân Chúa có tấm lòng quảng đại như người phụ nữ trong bài Thương Khó, để họ sẵn sàng dùng tài sản vật chất đáp ứng những nhu cầu của Hội Thánh.

4. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” Xin cho các gia trưởng trong giáo xứ, ý thức được sự cần thiết của cầu nguyện, và nhắc nhở các phần tử trong gia đình chuyên chăm cầu nguyện, để khỏi mắc mưu chước của ba thù.

Chủ sự: Lạy Chúa Giêsu Kitô, với những ước nguyện chúng con vừa dâng, xin cho chúng con hân hoan tiến về thành thánh Giêrusalem trên trời với Chúa, nhờ biết chấp nhận mọi vui buồn cũng như thăng trầm của cuộc sống, đợi ngày Chúa đến, chúng con được cầm cành thiên tuế khải hoàn đón rước Chúa, Chúa là hằng sống hiển trị muôn đời.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng, cúi xin Chúa nhớ lại cuộc khổ hình của Ðức Ki-tô và cho chúng con được làm hoà cùng Chúa. Thật chúng con chẳng làm gì nên công trạng, nhưng chúng con tin sẽ được Chúa mở lượng khoan hồng tha thứ, nhờ hiến lễ độc nhất vô song của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời tiền tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Người là Ðấng vô tội, đã cam chịu khổ hình thay cho những người tội lỗi, và bằng lòng chịu kết án bất công thay cho kẻ gian tà. Người đã chết để tẩy trừ tội lỗi, và đã sống lại để thánh hoá chúng con. Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con ca ngợi Chúa, và vui mừng phấn khởi tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Thánh!…

Ca hiệp lễ

Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống, thì xin theo ý Cha.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, tại bàn tiệc Thánh Thể, Chúa cho chúng con được thoả chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Suy niệm

NHỮNG ĐỔI THAY ĐẾN NGỠ NGÀNG

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B (Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47)
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần cao điểm của năm Phụng Vụ, bởi vì đây là tuần cả Giáo Hội sống lại mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu cách đặc biệt. Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu, khởi đi từ việc Ngài tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô vang lừng của dân chúng.

Tuy nhiên, sự tung hô, tôn vinh ấy chẳng được bao lâu, thì Ngài đã phải chết. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kiện đau lòng này chính là những sự đổi thay của lòng người!

1. Những đổi thay của lòng người

Ca dao Việt Nam có câu: “Dò sông, dò biển dễ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng!”. Chính vì lòng dạ con người như thế, nên người xưa, nhất là những người quân tử thường hay dùng người: cho ở xa để đem lòng trung, cho ở gần để đem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người!

Đức Giêsu cũng đã biết rõ lòng dạ con người nham hiểm, khó lường…, nên Ngài đã tìm mọi cách với hy vọng những gì mắt thấy, tai nghe, sẽ làm cho người môn đệ cũng như mọi người hướng thiện và sống tốt. Nhưng ai ngờ, do những tác động ngoại cảnh làm cho lòng người đổi thay theo, vì thế, cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng leo thang!

Người đổi thay đầu tiên được kể đến, chính là Giuđa. Ông là người Đức Giêsu yêu thương và tuyển chọn. Ngài cũng đã dạy dỗ ông nhiều điều, nhất là những bài học về từ bỏ, thanh thoát. Hơn nữa, còn tín nhiệm và trao cho ông chức vụ quản lý của Nhóm Mười Hai.

Tuy nhiên, thay vì coi đồng tiền là tôi tớ, là phương tiện, thì đằng này, ông đã coi nó là ông chủ, là mục đích. Vì thế, chính đồng tiền đã đè bẹp ông, khiến lòng dạ ông đổi thay. Chỉ với 30 đồng bạc, ông đã chấp nhận đánh đổi vị trí của mình: từ chỗ là môn đệ, thành kẻ phản bội khi bán Thầy của mình bằng cái hôn giả tạo và với giá rẻ mạt. Ôi một sự đổi thay đến đau điếng!

Thứ đến là sự thay đổi của Tông đồ trưởng Phêrô. Đức Giêsu rất thương Phêrô, bởi lẽ ông là một con người bộc trực, nhưng thẳng thắn, chân thành. Điều này lý giải cho việc tại sao Ngài thường đem ông và hai môn đệ khác đi riêng với mình để mặc khải cho ông những sự kiện quan trọng.

Khi ưu ái ông cách đặc biệt như vậy, ấy là vì Ngài muốn ông mục kích tận mắt và thấy tỏ tường quy luật: “Qua đau khổ mới tới vinh quang”. Hơn nữa, khi đưa ông vào trong mối tương quan thân tình với Ngài như vậy, đó là để có dịp tập cho ông những đức tính cần có của người lãnh đạo. 

Tuy nhiên, sự hèn nhát, sợ hãi, đã làm tê liệt ngọn lửa mến nơi ông. Sự trung thành đã không còn nữa. Ông đã sẵn sàng chối Thầy của mình trước toán lính quèn đang sưởi khi chúng gặng hỏi thân thế và mối liên hệ giữa ông với Đức Giêsu. Ôi lại một sự đổi thay khó hiểu!!!

Tiếp theo là sự đổi thay của đám đông. Đám đông này là những người thụ ơn Đức Giêsu. Họ là những người đã được Ngài chữa bệnh, trừ quỷ, dạy dỗ, cho ăn no nê…. Vì thế, khi nghe tin Đức Giêsu vào thành, họ đã tuôn đến như thác lũ và vang tiếng tung hô dạy cả một vùng trời! “Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tuy nhên, sẵn trong lòng sự hưởng thụ, nên họ đã vẽ lên trong tâm tưởng một Đức Giêsu theo ý của họ: Ngài phải là vua thống trị và giải thoát bằng quyền uy cũng như đem lại cho họ sự giàu có vượt trội! Nhưng khi Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong muốn, thế là đám dân này đã đi vào vết xe đổ vô ơn của tổ tiên họ nơi sa mạc khi xưa. Vì thế, họ đã coi Ngài như một kẻ xa lạ, là tội đồ của dân tộc, và, họ đã không ngần ngại đả đảo Ngài tới cùng “Đem đi! Đóng đinh nó vào thập giá”. Ôi một sự đổi thay đến xót xa!

Cuối cùng là sự đổi thay của quan tổng trấn Philatô. Ông là một vị quan toàn quyền Rôma thời bấy giờ. Lẽ ra, ông phải là người cầm cân nảy mực, bênh vực người nghèo và bảo vệ công lý.

Thế nhưng, trước sức ép của đám đông, trước sự tấn công của các Thượng tế, Biệt phái…, ông đã không nghe theo tiếng Lương Tâm mách bảo, nhưng đã trở thành kẻ đê hèn đến độ thuận theo cái ác để trù dập, loại trừ sự thiện và chấp nhận để “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”. Ôi một sự đổi thay đầy nhục nhã!

Như vậy, qua các cuộc đổi thay của lòng người, ta nhận thấy một mẫu số chung, đó là:

“Chút lợi danh, tính toan mưu kế

Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân”.

Và:

“Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng.

Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng”.

2. Những đổi thay của chính chúng ta

Đọc và lắng nghe bài thương khó của Đức Giêsu hôm nay, nhiều người chúng ta không khỏi bức xúc trước thái độ đổi thay của lòng người thời Đức Giêsu!

Tuy nhiên, trải qua suốt dọc dài lịch sử nhân loại, những thái độ đó lại nhan nhản nơi xã hội hôm nay!

Nhưng điều đáng nói hơn cả, đó là những thái độ ấy lại đang hiển hiện lên thật rõ nét ngay nơi mỗi người chúng ta.

Thật vậy, nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Hình ảnh một Giuđa ham tiền, hám bạc, phản bội lại hiện lên trong tâm hồn tôi khi tôi vẫn còn ham hố và bất chấp, để sẵn sàng chạy đua trên cuộc đua kiếm tiền bằng mọi cách. Vì thế, nhiều lúc tôi đã “đánh lận con đen” để ngụy biện cho hành vi đen tối của mình.

Nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Một Phêrô thời hiện đại với đầy đủ sự hèn nhát, ham sống, sợ chết, đang ẩn hiện trong con người tôi khi tôi không dám can đảm tuyên xưng niềm tin nơi môi trường sống của mình. Tôi cũng đã thất trung với Chúa khi không trung tín giữ giao ước với Ngài.

Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và lựa chọn của đám đông xưa kia cũng chính là lựa chọn của tôi hôm nay. Thật vậy, đã biết bao lần, tôi theo và tin Chúa chỉ vì cái bụng, nên: “Khi vui thì vỗ tay vào, gian nan hoạn nạn thì lìa nhau ra”.

Đã có lúc, tôi tạo ra một vị Thiên Chúa theo ý mình, để rồi yêu cầu Ngài phải đáp ứng đúng như yêu sách mà tôi đã đặt ra! Khi không đạt được, tôi đã sẵn sàng bỏ Chúa để đi tìm đến với một vị thần nào đó…! Những lúc như thế, tôi thuộc hạng người “ba phải”.

Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và thái độ hèn nhát của quan Philatô đang ẩn hiện trong con người tôi, khi tôi sợ không dám bảo vệ cho sự thật, công lý. Không dám đứng về phía người nghèo để bênh vực họ. Nhiều khi tôi đã hùa theo “hiệu ứng đám đông” mà quên đi lẽ công bằng, tình yêu thương, bác ái với anh chị em. Có những lúc tôi đã nhắm mắt để nói “có” thành “không” và nói “không” thành “có”, nhằm vu vạ cáo gian cho anh chị em tôi. Những lúc như thế, tôi thật hèn nhát, vì tôi thuộc dạng người “sợ tiếng chửi, ăn mày tiếng khen…”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh và đi theo Chúa trên con đường khổ nạn với tâm tình của Mẹ Maria; của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến; của các Phụ nữ Giêrusalem; của ông Simong; bà Veronica và  ông Giuse Arimathia….

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban ơn giúp sức, để chúng con trung thành đi theo Chúa đến cùng trên đường thương khó, ngõ hầu chúng con cùng chết với Chúa để được cùng Ngài sống lại trong vinh quang. Amen.

Phêrô

Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.

Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.

Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.

Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.

Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.

Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.


Vua Bình An – Mc 11,1-10

Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?

Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con.

Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.

Sau cùng, mục đích thứ ba là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.

Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Ngài.

Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.


Ngã rẽ cuộc đời
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.

Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.

Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.

Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.

Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).

Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ

1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?

2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?

3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?

4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?

5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
 

Suy niệm Bài Thương Khó Lễ Lá -Năm B
(Bài vắn)
Mc 15, 1-39

C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Ông nói đúng!”
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!”
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?”
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?”
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. “Ðóng đinh nó đi!”
C. Philatô đáp lại:
S. “Người này đã làm gì nên tội?”
C. Song chúng càng la to hơn:
S. “Ðóng đinh nó đi!”
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. “Tâu Vua dân Do-thái”.
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. “Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!”
C. Nghĩa là:
J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. “Kìa, nó gọi Elia!”
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?”
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”


Suy niệm Bài Thương Khó Lễ Lá -Năm B
Tác giả: Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Giọng đọc: Thanh Tâm

BÀI THƯƠNG KHÓ!
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

          
Là Kitô hữu Công giáo, vào Tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là “hát và nghe bài Thương Khó”. Những người hát thì vất vả cỡ nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các “ca viên không chuyên” ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết…

          
Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ “cuộc thương khó” được dịch bởi từ La ngữ “Passio”, mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là “Passion”, cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là “chịu đau khổ” thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vượt mức bình thường, thành sự đam mê, thành “yêu say đắm”. Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn.

          
1. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ích của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tính khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định.

          
Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18).

          
Một sự say đắm “quy ngã”, nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn.

          
2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời, tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ “cái thế này”: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man – Fils de l’ Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy “ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7,13).

          
Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính “hướng tha” nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm “con của loài người”, ý định của Người là “không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

          
Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào.

          
Người ta thường gọi các thánh là những người “điên”. Có lẽ chữ “điên” hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế, ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì “bài thương khó” dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi.


GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG
(CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM B)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
 
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần Vinh Quang Phục Sinh với Người.
 
Đức Giêsu là mẫu gương khiêm nhường thực thi thánh ý Chúa Cha, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã tường thuật lại: Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.
 
Đức Giêsu đã trở nên hiền lành và khiêm nhường, để nâng chúng ta lên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta đã nói: Người là Đấng hiền lành, đã vượt lên trên phía mặt trời lặn, tức là lên trên thân phận yếu hèn của chúng ta. Người vui mừng vì trước kia đã tỏ cho chúng ta thấy Người hiền lành như thế, nên đã tới chung sống với chúng ta, để nhờ dây thân thích với chúng ta, Người nâng chúng ta lên và đưa chúng ta đến với Người.
 
Đức Giêsu là Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận tất cả, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia cho thấy: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng đã cho thấy Đức Giêsu đã đi đến cùng của mầu nhiệm tự hủy: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
 
Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận mọi sỉ nhục, khinh chê, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy sự tự khiêm tự hạ của Người: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu.
 
Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Quyết định của Chúa, ai dò cho thấu. Đường lối của Người, ai theo dõi được. Tại sao Chúa lại chọn cách thức khiêm nhường, tự hủy, để biểu tả tình yêu của Người? Đây là một mầu nhiệm. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa để vào thành thánh Giêrusalem. “Ngựa” được dùng để chiến đấu ngoài sa trường, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, oai hùng, còn “lừa” được dùng để chỉ sự khiêm nhường, ôn nhu. Đức Giêsu đích thực là vị Vua Hòa Bình, mang bình an đến cho nhân loại. Noi gương Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta hãy lấy hết lòng khiêm nhường, trí khiêm hạ, và hoàn toàn khoét rỗng chính mình, để dọn đường: đón Đức Giêsu đi vào tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết cởi bỏ những chiếc áo, đính đầy những quyến luyến lệch lạc của thú vui trần thế, để mặc lấy Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận bị lột trần trụi trên thập giá, để che đậy sự tủi hổ mà tội lỗi đã mang lại cho chúng ta. Ước gì được như thế!


Chúa Nhật Lễ Lá -B
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô (Mt 11, 1-10).

Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con ‘Sao các ông làm thế?’ thì hãy nói rằng: ‘Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây’”. Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: “Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?” Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!”

Suy niệm

Những ngày mùa chay đang dần khép lại, nhường chỗ cho tuần lễ đặc biệt trong năm phụng vụ, đó là tuần thánh. Tuần thánh khởi đầu là Lễ Lá. Đây là một nghi thức tưởng niệm biến cố ngày xưa dân thành Giê-ru-sa-lem đón Đức Giêsu vào thành cách long trọng. Con Thiên Chúa tiến vào thành, dù với những bước chân nặng nề, nhưng Ngài luôn tin tưởng Cha của Ngài sẽ không để Ngài cô đơn, sẽ không để Ngài đau khổ và Ngài sẽ cố gắng thực hiện ý Cha trọn vẹn. Bước vào thành, Đức Giêsu bắt đầu đối diện với những đau khổ, đối diện với những cám dỗ về lý trí, sẽ bước tới, sẽ đón nhận tất cả, hay sẽ tháo lui, sẽ bỏ cuộc. Một cuộc chiến nội tâm trong chính con người của Ngài, đó là những phút giây Con Thiên Chúa mong được chia sẻ, mong được cảm thông và mong được an ủi, không bị bỏ rơi.

Hình ảnh người tôi tới trung tín được tiên tri I-sa-i-a diễn tả trong bài đọc 1, cho thấy phần nào dung mạo của Đấng Cứu Thế, như một người đầy tớ trung tín, biết ý chủ và cố gắng để thực hiện ý của chủ nhân trọn vẹn: “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. Dù phải đối diện với đau khổ, với thách đố, với những bế tắc phía trước, người tôi tớ luôn cố gắng để thực hiện ý của ông chủ, bởi nếu thực hiện trọn vẹn, sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người.

Hình ảnh người tôi tớ trung tín của tiên tri I-sa-i-a được họa lại cách tròn đầy trong lá thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Phi-lip-phê. Người tôi tớ này đã vâng lời cách trọn vẹn, chấp nhận tất cả để cho con người được cứu, được sống: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. Một người tôi tớ đã vâng phục cho đến chết, đã sống hết mình, hết tình với ơn gọi của mình, chắc chắn sẽ xứng đáng trọng thưởng. Phần thưởng là ngai vàng trên trời, là đấng xét xử mọi dân tộc. Ơn gọi và trách vụ song hành với nhau, kiến tạo nên một điểm đến xứng đáng nếu đó là người dám từ bỏ mình, vác thập giá mình theo chân Thầy của mình.

Tiến về Giê-ru-sa-lem trong sự đón tiếp trọng thị, không phải là đã đến giờ được tôn vinh như các học trò thắc mắc, nhưng là đến giờ Con Thiên Chúa làm hiển lộ đỉnh cao của tình yêu tự hiến, là hy sinh, là từ bỏ, là tha thứ, là dám chết cho người mình yêu: “Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!”. Thầy ơi, sao Thầy có thể chấp nhận một bản án bất công thế sao? sao Thầy có thể để cho người ta sỉ nhục, để cho người ta nhạo cười, để cho người ta kết án vô cớ vậy? sao Thầy có thể chấp nhận cái chết cách đơn giản vậy? có phải Chúa Cha đã bỏ rơi Thầy, hay quyền lực và vinh quang của Thiên Chúa trên núi Tabor đã tiêu tan hết rồi? Con không hiểu được, con chưa chấp nhận sự việc này được.

Trái tim có một thứ ngôn ngữ riêng của nó mà không ai giải thích được. Làm sao con người giải thích được hành động của Thiên Chúa, thế thì làm sao con người có thể đi lại con đường của Thiên Chúa đã đi qua. Ngôn ngữ của trái tim là ngôn ngữ tình yêu, tình yêu đích thực là tình yêu tự hiến, là dám từ bỏ, dám hy sinh cho người mình yêu. Thiên Chúa hành động khởi đi từ tình yêu bởi bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, từ đó, con người phần nào hiểu được rằng, chính tình yêu của Thiên Chúa đã cứu độ con người, chính tình yêu đó đã mở đường cho con người trở về với Thiên Chúa.

Bước vào tuần thánh, người tín hữu Kitô được mời gọi theo chân Thầy Chí Thánh, cùng vào sân Caipha, cùng tới dinh Hêrôđê, cùng tới ngai tòa Philatô, để thấy bộ mặt thật của thế gian khi đối diện với tình yêu đích thực. Thế gian không thể hiểu nỗi chiều sâu của tình yêu, con người cũng chẳng hiểu được sự thật là gì luôn, cách nào đó, con người cho rằng, sức mạnh của tình yêu chỉ là ảo tưởng, khái niệm tình yêu chỉ là lý thuyết, còn sức mạnh của tình yêu, chắc sẽ không bao giờ có. Dừng lại trên đỉnh đồi vào giờ thứ chín, con người bắt đầu thấy được sức mạnh của tình yêu, đó là sự tha thứ, đó là sự quan tâm tới kẻ phản bội mình, đó là dám chết cho người mình yêu. Cũng trên đỉnh đồi đó, thế gian phần nào đã khám phá được một phần về Thiên Chúa, điều mà con người không thể làm được, Thiên Chúa đã làm, điều mà con người cho là bất thường, Thiên Chúa đã đón nhận, tất cả vì yêu và vì yêu.

Lạy Chúa, bước vào tuần thánh, con thấy tâm hồn mình còn ngổn ngang bao âu lo, bao tham lam, ích kỷ, giờ thấy Chúa bước vào thành thánh để cứu con bằng giá máu của Chúa, con sẽ làm gì đây, xin giúp con can đảm từ bỏ tất cả những ngổn ngang trong tâm hồn, để theo chân Chúa trong từng chặng đường khổ nạn, để con được Chúa biến đổi. Chặng đường khổ nạn không như bao chặng đường cuộc đời của con, nơi đó chỉ có đau khổ, chỉ có bất công, chỉ có hẹp hòi và tham lam, con sẽ dừng lại mỗi nơi như thế, để tìm có thấy mình trong số người hỗn loạn đó không, nếu có xin Chúa đừng chấp tội con, xin Chúa tha thứ cho con. Amen.

CHO MỘT MỤC ĐÍCH CAO CẢ NHẤT
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.

“Cái ách và thập giá là biểu tượng sinh đôi của Kitô hữu. Thập giá nói đến việc từ bỏ thế gian vì Chúa Kitô; cái ách nói đến việc gánh lấy thế gian như Chúa Kitô. Cái thứ nhất nói đến hy sinh; cái thứ hai nói đến phục vụ. Người môn đệ Chúa Giêsu không thể chọn lấy cái này và bỏ cái kia! Cả hai gắn kết nhau ‘cho một mục đích cao cả nhất!’” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá cho chúng ta những trải nghiệm và cảm xúc hoàn toàn trái ngược nhau khi chiêm ngắm Chúa Giêsu, từ phấn khích đến đau đớn tột cùng: “Hoan hô trên các tầng trời!”; “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Tại sao lại như thế? Thưa vì Chúa Cha muốn như vậy ‘cho một mục đích cao cả nhất!’.

Làm thế nào mọi thứ có thể thay đổi trong một tuần ngắn ngủi? Câu trả lời sâu sắc nhất cho câu hỏi này là Chúa Cha đã muốn! Ngài muốn bằng ý muốn dễ dãi của mình rằng, nhiều người sẽ tự do phản bội Con Ngài, bỏ rơi Con Ngài và để Con Ngài bị đóng đinh. Vào Tuần Thánh đầu tiên đó, Chúa Giêsu có thể sử dụng quyền năng thần linh để từ chối thập giá. Nhưng Ngài không làm vậy. Thay vào đó, sẵn lòng bước qua tuần này, Ngài thấy trước và đón nhận mọi khổ đau và sự khước từ. Ngài đã không làm vậy vì miễn cưỡng hay hối tiếc nhưng sẵn lòng đón nhận, chọn nó làm ý muốn của chính Ngài.

Trong sự khôn ngoan hoàn hảo của Chúa Cha, đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu là phương thế cứu chuộc tốt nhất. Ngài đã làm bối rối sự khôn ngoan của thế gian bằng cách dùng sự đau khổ và sự đóng đinh Con Ngài làm phương tiện hoàn hảo cho sự thánh khiết của chúng ta. Qua đó, Ngài đã biến điều ác lớn nhất thành điều tốt lành nhất. Giờ đây, do niềm tin, thánh giá được treo ở trung tâm nhà thờ và trong mỗi gia đình của chúng ta như một nhắc nhở thường xuyên rằng, ngay cả sự dữ lớn nhất cũng không thể chiến thắng được quyền năng, sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa mạnh hơn cái chết và cuối cùng, Ngài chiến thắng ngay cả khi tất cả dường như đã mất.

Hãy để Tuần Thánh mang đến niềm hy vọng thiêng liêng cho bạn và tôi! Chúng ta thường bị cám dỗ chán nản; tệ hơn, cám dỗ đến tuyệt vọng. Nhưng tất cả sẽ không mất đi. Và cuối cùng, không gì có thể cướp đi niềm vui của chúng ta trừ khi chúng ta để nó vuột mất. Không khó khăn, gánh nặng và thánh giá nào có thể khuất phục chúng ta nếu chúng ta kiên định trong Chúa Giêsu Kitô. Hãy để Ngài biến đổi tất cả những gì chúng ta chịu đựng trong cuộc sống bằng vòng tay vinh quang của Ngài trên thập giá của chính Ngài!

Kính thưa Anh Chị em,

“Sao Ngài bỏ rơi con?”. Hãy suy gẫm việc Chúa Giêsu bị bỏ rơi là một hành động thiêng liêng; qua đó, Chúa Cha cho phép sự đau khổ trầm trọng này được sử dụng ‘cho một mục đích cao cả nhất’ từng được biết đến. Chúa Giêsu đã tự hiến sự sống của Ngài một cách tự do và mời gọi bạn cũng làm như vậy. Hãy suy gẫm thập giá trong đời bạn và biết rằng, Chúa có thể sử dụng nó cho mục đích tốt, mang lại lòng thương xót dồi dào cho bạn và cho người khác qua vòng tay tự do của bạn khi bạn dâng nó lên Ngài như một của lễ hy sinh. Hãy để mắt đến thập giá Chúa và thập giá bạn! Chúc mừng Tuần Thánh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho tuần lễ này biến đổi những thời khắc đen tối và yếu đuối nhất của con thành thời khắc của ân sủng khi con nghiệm ra tình yêu Chúa dành cho con!”, Amen.

 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...