Suy niệm: Tháng Truyền giáo Ngoại thường


Suy niệm hàng ngày: Tháng Truyền giáo Ngoại thường T10-2019

Được Rửa Tội và Được Sai Đi:

Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới

 

GẶP GỠ CHÚA GIÊSU KITÔ

“Sự gần gũi của Hội Thánh với Chúa Giêsu

là một phần của một hành trình chung.”

(Evangelii Gaudium, 23)


 

Suy Niệm Hàng Ngày

NGÀY 1 THÁNG 10, 2019

Thứ Ba Tuần 26 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Dcr 8:20-23

Tv 87:1b-7

Lc 9:51-56

Lời ngôn sứ Dacaria 8:20-23 nuôi dưỡng niềm hi vọng của Dân Chúa, dân đang trông đợi sự hoàn thành của mình trong cuộc hành hương của mọi dân tộc trên thế giới cùng tiến về Giêrusalem vào thời sau hết (x. Dcr 8:22). Sách Ngôn sứ Dacaria được đặt ở vị trí áp chót trong nhóm 12 sách Ngôn Sứ. Cùng với ngôn sứ Khácgai, Dacaria được cho là một trong những ngôn sứ cuối cùng hoạt động vào thời khôi phục cộng đồng Do Thái về mặt tôn giáo và dân sự tại “miền đất của tổ tiên”, khi việc tái thiết đền thờ Giêrusalem đã hoàn tất sau thời lưu đày Babylon.

Lời hứa của ngôn sứ đến ở phần ba của sách Dacaria (Dcr 8:12-14), nhưng đã được báo trước ngay ở phần một, Dcr 2:10-11. Lời hứa này nằm trong truyền thống ngôn sứ trông đợi cuộc hành hương của mọi dân tộc tiến về Giêrusalem trong hoà bình, như chúng ta thấy trong đoạn Is 2:1-4, một bản văn hầu như giống hệt với Mk 4:1-4. Trên hết, đó là truyền thống của trường phái Isaia khai triển chủ đề về niềm hi vọng này mà Do Thái giáo dứt khoát hướng tới, cùng với việc Đấng Mêsia sẽ đến vào thời sau hết (x. Is 49:22-23).

Về việc mọi dân tộc cuối cùng sẽ hoán cải để trở về với Chúa, truyền thống ngôn sứ đồng thanh xác tín rằng sự hoán cải này sẽ không phải là kết quả của một hoạt động truyền giáo được thực hiện bởi Do Thái giáo. Sự hoán cải này sẽ là một lời đáp lại hành động của chính Chúa trong trái tim của mọi dân tộc vào thời sau hết.

Bài Tin Mừng về hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem dọi ánh sáng mới vào những lời tiên tri về sự hoán cải của mọi dân tộc về với Chúa, qua việc sử dụng hình ảnh về cuộc hành hương vĩ đại tiến về Giêrusalem vào thời sau hết. Việc Luca nhắc đến “những ngày Người được cất lên trời” (Lc 9:51) không chỉ liên quan đến việc Đức Giêsu lên trời (x. Lc 24:50-51; Cv 4:46), nhưng cũng chỉ về mầu nhiệm Người chịu khổ nạn và chịu chết tại Giêrusalem. Đức Giêsu đã từng nói điều này cho các môn đệ khi Người giải thích cho Phêrô ý nghĩa của việc ông tuyên xưng Người là Đấng Mêsia. Người nói, “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9:22). Người lặp lại điều này cho các môn đệ sau khi Người biến hình trên núi (x. Lc 9:44) và lần thứ ba cho Nhóm Mười Hai trước khi Người từ Giêricô đi lên Giêrusalem lần cuối cùng (x. Lc 18:31-33). Vào mỗi dịp như thế, Người đều bảo các môn đệ rằng họ không thể hiểu được ý nghĩa của những lời ấy.

Kế hoạch cứu độ phổ quát của Thiên Chúa―cho Ítraen cũng như cho mọi dân tộc―đều đi qua Giêrusalem như là nơi Đức Giêsu “được giương cao” (Ga 12:32). Đó chính là sức hút thần linh sâu xa, không thể cưỡng được, của mầu nhiệm thập giá được Đức Giêsu sống, làm chứng và biến đổi để khơi dậy, củng cố và nâng đỡ chuyển động hoán cải của các dân tộc về Giêrusalem, nơi được Chúa chọn cho mầu nhiệm cứu độ. Đức Giêsu đã cho tham dự vào sứ mạng của Người trước tiên là Nhóm Mười Hai, rồi đến Hội Thánh mà Người đã thiết lập bằng lời kêu gọi cụ thể. Các môn đệ không thể không đi theo Đức Giêsu, mặc dù có lúc họ thấy khó hiểu, dựa vào các lời nói và hành vi của họ: đó là một hành trình hoán cải, bắt đầu bằng một tiếng gọi và tiếp tục suốt cuộc đời mỗi người.

Việc Đức Giêsu đi qua Samaria để lên Giêrusalem là một câu truyện biểu trưng cho sự hoán cải mà các môn đệ của Đức Giêsu phải liên tục trải qua nếu họ muốn đồng hành với Người và hỗ trợ Người trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và cứu độ của Người. Khi Người sai các sứ giả đi trước để chuẩn bị đến một làng xứ Samaria (x. Lc 9:52), Người hoàn toàn ý thức về sự thù nghịch và chia rẽ giữa dân Do Thái và dân Samaria (x. Ga 4:20), nhưng điều này không thể ngăn cản Người đến đó: hơn nữa, ngay cả các môn đệ cũng phải học biết xử lý tình trạng thù địch sâu sắc này một cách khác. Hai anh em Giacôbê và Gioan―mà Đức Giêsu đã mỉa mai đặt cho biệt danh là “con của sấm sét” (Mc 3:17)―đã có phản ứng giận dữ và hung hăng (x. Lc 9:54) trước sự đáp ứng tiêu cực của dân làng Samaria (x. Lc 9:53). Hai anh em này được thúc đẩy bởi một niềm xác tín thiếu khôn ngoan rằng mình là những người nắm giữ một chân lý tôn giáo siêu đẳng. Một số thủ bản thời kỳ đầu của sách Tin Mừng, được lưu giữ bằng tiếng Hi Lạp, Syriac và Latinh, có thêm một câu giải thích ngắn vào cuối câu hỏi mà hai môn đệ nêu lên: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó, như ông Êlia đã làm không?” (x. 2V 1:10-12; Hc 48:3). Đối với Đức Giêsu, đây là một lời yêu cầu không chính đáng và nại vào thẩm quyền của Kinh Thánh một cách không phù hợp: “Đức Giêsu quay lại và quở trách họ” (Lc 9:55). Cùng một dị bản cổ xưa của đoạn này có nhắc đến ông Êlia cũng khai triển thêm về lời quở mắng của Đức Giêsu khi Người bảo họ, “Các ngươi không biết mình được Thần Khí nào hướng dẫn, vì Con Người không đến để tiêu diệt nhưng để cứu thoát” (Lc 9:55-56). Giáo huấn Kitô giáo này nhắc nhớ chúng ta về bản chất sứ mạng của Đức Giêsu, không phải là về sự báo oán của Thiên Chúa; việc nhắc đến Thần Khí thúc đẩy hai ông Giacôbê và Gioan là điều có ý nghĩa trong thần học của trường phái Luca, bao gồm cả sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ. Trong câu truyện của sách Tin Mừng, Đức Giêsu chỉ đơn giản đi đến một làng khác (x. Lc 9:56). Đây là một chiến lược mục vụ (x. Lc 10:10-11) cũng sẽ hướng dẫn Phaolô và Banaba trong hành trình truyền giáo đầu tiên của hai ông tới Antiokia thuộc xứ Pisiđia (x. Cv 13:46). Đức Giêsu không nói gì về sự chối từ của dân làng Samaria; hơn nữa, một trong những chuyến hành trình truyền giáo đầu tiên của Hội Thánh Giêrusalem sẽ được dành cho người Samaria. Trợ tế Philípphê được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sẽ bắt đầu sứ mạng (x. Cv 8:5), và Phêrô và Gioan sẽ hoàn tất sứ mạng này (x. Cv 8:14-17).

Sứ mạng của Hội Thánh là tự biến đổi mình để trở nên giống với con người và mầu nhiệm Đức Kitô. Đây là sự hoán cải bao gồm toàn thể cuộc sống của một con người, dành lại cho Chúa công việc mở cửa sứ mạng và đánh động con tim của người ta. Các dân tộc được hoán cải vào lúc nào và bằng cách nào: đó là công việc của Chúa; công việc của Hội Thánh là tự hoán cải mình để trở về với Thần Khí và với con người Chúa Giêsu.

NGÀY 2 THÁNG 10, 2019

Thứ Tư Tuần 26 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Các Thiên Thần Hộ Thủ

Nkm 2:1-8

Tv 137:1-6

Mt 18:1-5,10

Hai bài đọc phụng vụ hôm nay, Nkm 2:1-8 và Mt 18:1-5,10 có thể được hiểu như là những cách diễn tả cơ bản về một linh đạo truyền giáo cho thời đại chúng ta.

Ở đoạn trước đoạn này (xem Nkm 1: 1 lb), Nơkhemia được giới thiệu là quan chước tửu của vua trong hoàng cung Ba Tư; ông mang trong mình một ký ức sống động và đau đớn về cảnh thành Giêrusalem bị tàn phá (x. Nkm 1: 5-11); đó không phải là một tình cảm yêu nước hoài cổ, mà là một khía cạnh cơ bản của lời cầu nguyện trong Kinh thánh vào thời lưu đày Babylon và hậu lưu đày (x. Tv 137: 5-6). Nó phù hợp với thông điệp về cuộc xuất hành mới từ nơi lưu đày này để trở về nơi “quê cha đất tổ” (xem Is 40: 9-11). Nó là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa cho dân của Người; Người thậm chí sử dụng quyền lực của một người ngoại giáo, vua Kyrô của xứ Ba Tư, một trong những ông vua hùng mạnh của trái đất vào thời đó (xem Ez 1: 1-4). Nơkhemia hiểu rằng trong vị trí của mình tại triều đình của đế chế Ba Tư―khoảng tháng 12 năm 446 tr. CN, vào thời vua Artaxerxes I, gần một thế kỷ sau săc lệnh của vua Kyrô―ơn gọi hay sứ mệnh của ông là phải xây dựng lại Jerusalem, hiểu theo nghĩa rộng là: xử lý các vấn đề cụ thể của dân Do Thái, những người bây giờ có bổn phận tái thiết cộng đồng phụng tự và quản trị tại xứ Giuđa với trung tâm là Giêrusalem.

Nơkhemia biết rằng khi đang ở triều đình, ông không thể tiết lộ thân phận Do Thái của mình, vì sợ vua Ba Tư có thể nghi ngờ rằng nỗi đau buồn của ông về việc Giêrusalem bị tàn phá hoang tàng có thể kích động một phong trào nổi loạn để hỗ trợ một thiểu số sắc tộc và tôn giáo trong đế chế. Vua hỏi thẳng Nơkhemia: “Vậy khanh muốn gì?” (Nkm 2:4), như thể vua đang thăm dò lý do tại sao Nơkhemia buồn rầu. Người Do Thái này trong hoàng cung Ba Tư sợ rằng mình có thể nói quá nhiều: “Thần cầu xin Thiên Chúa các tầng trời” (Nkm 2:4). Thực vậy, sách Châm Ngôn dạy chúng ta: “Suy nghĩ lo toan là việc của con người, còn nói câu trả lời là do Ðức Chúa” (Cn 16:1). Và nhờ ánh sáng đức tin này, Nơkhemia có thể được vua cho phép đi Giuđa để lo công việc tái thiết Giêrusalem (x. Nkm 2:5).

Trên thực tế, mọi sự bây giờ mau chóng chuyển động theo ý của Thiên Chúa. Vua chỉ hỏi Nơkhemia cần bao nhiêu thời gian để lo sứ mạng của ông tại Giuđa; rõ ràng vua đã chấp thuận cho ông đi (x. Nkm 2:6). Nơkhemia tiếp tục giữ thái độ thận trọng cần thiết để thi hành sứ mạng của mình, nhưng bây giờ chính Thiên Chúa là Đấng hành động (x. Nkm 2:8).

“Nhà truyền giáo” này hành động một cách thận trọng giữa cái thế giới thù nghịch mà ông đang sống, nhưng sự thận trọng và khôn ngoan là không đủ nếu không có “bàn tay dẫn dắt” của Chúa. Bây giờ ông sẽ phải có sự hiểu biết về thế giới Palestin là nơi ông sẽ đến để thi hành sứ mạng Chúa trao cho ông.

Đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hãy sống giống như những trẻ thơ, cho chúng ta thấy rõ chiều sâu của công việc hoán cải cần thiết trong chính Hội Thánh để có thể thi hành sứ mạng của mình. Sứ mạng này có thể bị phá hỏng từ bên trong cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu do những cám dỗ về tính kiêu ngạo và quyền lực được khơi dậy trong ngôn ngữ tôn giáo (x. Mt 18:1). Trong những dòng cuối của đoạn Tin Mừng này, trong đó có nhắc đến các tội ngăn cản chúng ta đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, là cám dỗ cuối cùng và khó kháng cự nhất―sau cám dỗ về tính dục sai trái (x. Mt 19:1-12) và tham lam tiền bạc (x. Mt 19:16-26)―đó là cám dỗ về quyền lực, nó có vẻ là bất trị ngay cả đối với các môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 20:20-28).

Đối với việc phá hỏng sứ mạng bởi tội lỗi, Đức Giêsu đưa ra một cử chỉ có ý nghĩa và một sự cam kết sống còn: trở nên giống như trẻ thơ (x. Mt 18:2-4). Bất cứ ai cảm thấy mình được gọi thi hành sứ mạng cần phải có một sự hoán cải sâu xa: trở nên giống như trẻ thơ. Không phải giống trẻ thơ chỉ theo nghĩa thuần tuý nhân loại. Nơkhemia hẳn đã phải có một sự ý thức cụ thể và sâu sắc về cả thế giới ông đang sống và sắp sửa ra đi, và thế giới ông cảm thấy mình được kêu gọi phải đi đến. Cũng thế, mọi môn đệ Đức Giêsu mà cảm thấy mình được gọi thi hành sứ mạng đều phải có đức tin vào Thiên Chúa và hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Người môn đệ truyền giáo phải có cùng một niềm tin cậy giống như các trẻ thơ tin cậy vào cha mẹ chúng, tin cậy vào tình thương và sự che chở của cha mẹ, và vì thế cũng tin tưởng vào hiện tại, vốn đã là khởi đầu của tương lai.

Đó cũng là cùng một trải nghiệm của Đức Giêsu với tư cách là Con của Chúa Cha, hoàn toàn ý thức về thực tại, hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng phục tùng Người. Chỉ bằng cách này, hoàn toàn trở nên giống Chúa Giêsu, chúng ta trong tư cách là môn đệ mới có thể thi hành sứ mạng mà chúng ta được kêu gọi thực hiện. Người Kitô hữu mà đã thực sự trở nên giống như trẻ thơ theo cách hiểu của Đức Giêsu, thì nhờ kinh nghiệm sẽ học được rằng những kết quả của sứ mạng luôn nằm trong tay của Đấng đã cho Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết và là Đấng sai họ thực hiện sứ mạng. Vô phúc cho cộng đoàn Kitô hữu nào coi niềm tin này là vô nghĩa, khinh thường hay chối bỏ niềm tin này: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 18:10).

Trở nên giống như trẻ thơ tạo cho người môn đệ truyền giáo hình dáng của mối quan hệ với Đức Giêsu, là Thầy và là Chúa. Trong Đức Giêsu, người môn đệ khám phá ra ơn gọi làm con của mình như một người con của Chúa Cha và sự tự do vâng phục của mình như là kết quả của việc thuộc về đức tin và sứ mạng. Là người con trai con gái trong Chúa Con, mỗi người môn đệ đều là người truyền giáo vì được sai đi loan báo tin vui, được nâng đỡ và đồng hành bởi các thiên thần, các sứ giả thiên quốc, giúp đỡ họ luôn mở lòng mình ra cho chiêm niệm như là nền tảng của sứ mạng, và cởi mở trước những thách thức của thế giới mà họ muốn làm chứng về Chúa cho nó. Giống như các thiên thần hộ thủ được ban cho mỗi người chúng ta, người môn đệ với tinh thần trẻ thơ luôn luôn nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Cha nơi Đức Giêsu để luôn luôn khám phá ra nơi bất cứ ai khuôn mặt của một người anh chị em mình, để yêu thương và cứu rỗi họ.

NGÀY 3 THÁNG 10, 2019

Thứ Năm Tuần 26 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Nkm 8:1-4a,5-6,7b-12

Tv 19:8-11

Lc 10:1-12

Các sách Étra và Nơkhemia mô tả bằng một bản trường ca đức tin những thời khắc quan trọng của cuộc khôi phục cộng đồng Dân Thiên Chúa tại vùng đất xưa của tổ tiên sau thời lưu đày Babylon. Giữa những nỗi bất hạnh và đau khổ, kế hoạch của Thiên Chúa như đã được báo trước ở Is 55:12-13 vẫn được thực hiện, thậm chí thông qua các quyết định của một ông vua ngoại giáo, vua Kyrô nước Ba Tư; theo cả 2 Sb 36:22-23 và Er 1:1-4, chính sách của vua Kyrô đối với thiểu số sắc tộc tôn giáo Do Thái là sự hoàn thành lời của chính Đức Chúa. Tuy nhiên, cuộc hồi hương của một ít người lưu đày được trình bày không phải như một bản trường ca về một thứ hạnh phúc rẻ tiền. Kế hoạch của Chúa được thể hiện qua những đoàn người lưu đày khác nhau trở về nơi quê cha đất tổ của họ, trong một “lịch sử thánh” được mô phỏng theo cuộc trở về Đất Hứa nhiều thế kỷ sau khi họ ra khỏi Ai Cập (Nkm 8:17). Trong sách Nơkhemia, công cuộc tái thiết đền thờ và thành Giêrusalem được hoàn thành trong việc tái tổ chức cộng đồng theo các giới lệnh của Lề Luật (x. Nkm 11:1; 12:26), vào ngày lễ cung hiến “nhà của Thiên Chúa” (x. Nkm 12:27-43), và trong việc dân chúng tái cam kết về giao ước (x. Nkm 13:4-31).

Việc long trọng cử hành phụng vụ Lời Chúa vào ngày Lễ Lều là một bước quyết định trong việc khôi phục cộng đoàn phụng tự tại đất của tổ tiên. Vào ngày đầu tiên của dịp lễ này, phụng vụ Lời Chúa diễn ra ở ngoài trời (x. Nkm 8:1-2), vì toàn thể miền đất của tổ tiên là một không gian thánh, đặc biệt thành Giêrusalem, và luật Tora thậm chí còn quan trọng hơn cả đền thờ và các vật hi tế của đền thờ. Vị tư tế và ký lục Étra phải được mọi người nhìn thấy và lắng nghe khi ông công bố Luật Môsê (x. Nkm 8:4). Một nhóm người khác là các thầy Lêvi có nhiệm vụ đọc sách Luật và cắt nghĩa cho dân chúng (x. Nkm 8:7-8). Sau này, các truyền thống Do Thái giải thích ý nghĩa của động từ “cắt nghĩa”, được liên kết với việc “đọc” bản văn Kinh Thánh, như là khởi đầu của truyền thống diễn tả lại bằng tiếng Aram (ngôn ngữ rất quen thuộc của những người lưu đày trở về từ Babylon) bản văn Kinh Thánh được đọc bằng tiếng Hípri, nghĩa là sự khởi đầu của việc giải thích (midrash) bản văn thánh để tìm kiếm Chúa qua Lời của Người. Dân chúng đáp lại lời Chúa bằng việc khóc lóc (x. Nkm 8:9,11), một dấu chỉ của sự thành thật ăn năn hối lỗi, trên hết là vì ý thức mình đã phạm tội chống lại sự thánh thiện của chính Chúa, đã khinh rẻ tình yêu và lòng thương xót của Người, theo ngôn ngữ tiên tri. Nhờ ơn Chúa, Lời đã đi vào được trong trái tim của mọi người và thúc đẩy họ đi trên con đường hoán cải. Cuộc cử hành phụng vụ này biểu thị ý nghĩa phong phú hơn là sự kiện lịch sử nguyên thuỷ; nó trở thành một biểu tượng cho mọi thế hệ tín hữu. Buồn sầu và khóc lóc được biến đổi thành niềm vui của việc tái khám phá ra lời của Chúa (x. Nkm 8:9); những vị đã cắt nghĩa lời ấy cho dân có thể và phải giúp dân biến đổi sự hối hận thành niềm vui (Nkm 8:11). Theo truyền thống của Đệ Nhị Luật 16:13-14, dịp lễ hội thu hoạch hoa màu―lễ này trở thành Lễ Lều, được cử hành để kỷ niệm cuộc hành trình trong sa mạc sau cuộc xuất hành―đòi hỏi chia sẻ một phần hoa màu cho những người nghèo của cộng đoàn. Chính tổng đốc Nơkhemia kêu gọi tổ chức bữa tiệc mừng để chia sẻ cho những ai không có gì để ăn (x. Nkm 8:10). Là dấu chỉ về sự hiệp thông của ngày lễ, việc chia sẻ là một nguồn vui và làm chứng rằng Lời Thiên Chúa đã được hiểu rõ trong tâm trí và trong đời sống của mọi người (x. Nkm 8:12).

Việc Đức Giêsu kêu gọi bảy mươi hay bảy mươi hai môn đệ, mỗi người đại diện cho mười hai chi tộc Ítraen, diễn ra sau khi Người kêu gọi Nhóm Mười Hai (x. Lc 9:1-6). Cả hai lần sai phái sứ giả này đều là để trợ giúp và chuẩn bị cho cuộc hành trình của chính Đức Giêsu. Chuẩn bị cho sứ mạng hệ tại việc thuộc về cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu theo nghĩa rộng, thậm chí giữa những người không phải là Do Thái; lời của Thiên Chúa được giơ lên cao trong chính con người Đức Giêsu, giống như Luật Môsê được giơ lên cao trước cộng đoàn vào thời Étra và Nơkhemia (x. Nkm 8:1). Trong cộng đoàn môn đệ nguyên thuỷ của Người, chính Đức Giêsu bắt đầu cắt nghĩa Sách Thánh như là một Tin Mừng (x. Lc 24:44-48), coi việc đọc và giải thích Sách Thánh là điều cốt yếu trong cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu (x. Lc 24:25-35).

Khi uỷ thác cho các môn đệ sứ mạng rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng nói về các phương pháp truyền giáo: các trang bị và thực hành (x. Lc 10:1-11). Ngài cho họ các hướng dẫn thực hành, một phần tuân giữ nền văn hoá Do Thái-Palestin của thời đó, như là tuân giữ ‘tục lệ chào hỏi’ (x. Lc 10:4-7; St 18:1-8), nhưng Người cũng nhấn mạnh sự cấp bách và vị trí ưu tiên tuyệt đối của sứ mạng trên nền văn hoá của thời đại (x. Lc 10:4), và họ bị đưa vào những nơi nguy hiểm (x. Lc 10:3). Họ mang theo một thông điệp bình an (x. Lc 10:5; 24:36) giúp khơi dậy những cử chỉ thuận lợi của người rao giảng Tin Mừng và những người được nghe rao giảng Tin Mừng (x. Lc 10:8-9a) và có mục tiêu là sự đến của “Nước Thiên Chúa” (Lc 10:9b): sự đến của Đức Giêsu, hành trình của Người (x. Lc 10:1). Như trong thế giới Palestin thời ấy thế nào, thì cũng sẽ luôn luôn như thế tại mọi nơi và mọi thời trên thế giới. Thậm chí các lời dạy của Đức Giêsu về việc các môn đệ phải ứng xử thế nào khi họ bị từ chối trong việc rao giảng Nước Thiên Chúa cũng được hướng dẫn bởi vị trí ưu tiên của sứ mạng (x. Lc 10:10-11); cùng một cách ứng xử này sẽ được áp dụng bởi Phaolô và Banaba khi các ông gặp sự chống đối của cộng đồng Do Thái (x. Cv 13:44-51).

Đức Giêsu bảo đảm cho các người truyền giáo của Người rằng khi họ bị từ chối, thì không phải là vì họ, mà là vì Chúa (x. Lc 10:12). Thậm chí sự từ chối và bách hại của Đức Giêsu và vì Đức Giêsu có thể trở thành cơ hội cho các môn đệ truyền giáo trở nên phù hợp với cuộc Vượt Qua của Thầy mình, trong đó sứ điệp được cống hiến, Nước Thiên Chúa được rao giảng, thân phận vừa là Thiên Chúa vừa là người và số phận là Đấng Mêsia và Cứu Thế của Người trở thành mối quan tâm duy nhất: thi hành ý muốn của Cha để cứu rỗi thế giới. Việc xét xử liên quan đến sự cứu rỗi của các thành phố được nghe rao giảng ơn cứu độ nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, việc Nước Thiên Chúa được hiện thân nơi con người Chúa Con, việc xét xử ấy chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi. Không ai có thể giả định sự lên án hay án phạt (x. Mt 13:24-43); các môn đệ truyền giáo phải cháy lửa đam mê và yêu mến đối với thế giới, để mọi người được cứu độ, bằng việc lên đường tìm đến với mọi người nam người nữ thuộc mọi thế hệ, mọi nơi và mọi thành phố, để không một ai bị lỡ cơ hội được nghe rao giảng Tin Mừng cứu độ.

NGÀY 4 THÁNG 10, 2019

Thứ Sáu Tuần 26 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Phanxicô Assisi

Br 1:15-22

Tv 79:1-5.8.9

Lc 10:13-16

Để hiểu sâu hơn về sứ mạng mà mọi Kitô hữu được kêu gọi thực hiện, sẽ hữu ích nếu bắt đầu từ những lời của Đức Giêsu trong Lc 10:13-16, rồi quay sang lời cầu nguyện của Br 1:15-22, nhờ đó làm sáng tỏ về lịch sử Ítraen của Thiên Chúa, là dân được hợp thành bởi những người gốc Ítraen lịch sử, và những người được kết hợp với Ítraen của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Kitô và phép rửa.

Bài diễn từ Đức Giêsu dùng để sai các môn đệ đi truyền giáo được tiếp nối bằng một lời cảnh cáo nghiêm khắc dành cho hai làng Khoradim và Caphácnaum ở miền Galilê (x. Lc 10:13-15). Hai làng thuộc đất Palestin này đã từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm khi rao giảng về Nước Thiên Chúa (x. Mt 11:21). Tại Caphácnaum, Đức Giêsu đã có những bước đầu tiên loan báo sứ điệp của Người (x. Lc 4:23) và đã cho thấy quyền năng của Nước Thiên Chúa (x. Lc 4:31-41), và chính tại nơi ấy Người đã đón nhận đức tin của viên đại đội trưởng người Rôma (x. Lc 7:1-10). Ông Philípphê, một trong số 12 tông đồ, là người xuất thân từ Bétsaiđa (x. Ga 1:44; 12:21). Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Giêsu đối với hai làng Palestin nơi Người đã làm các phép lạ nhưng đã gặp phải sự thiếu lòng tin của dân làng, không phải là một lời kết án chung cuộc, không thể đảo ngược. Vào cuối bài diễn từ sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu tái khẳng định tầm quan trọng của sứ mạng phúc âm hoá: phúc âm hoá và được phúc âm hoá bao gồm những trách nhiệm không thể tránh được trước sự phán xét của Thiên Chúa, một sự phán xét không phải là một án phạt dứt điểm không thể kháng án, nhưng vạch ra điểm tham chiếu cuối cùng vào thời sau hết (x. Lc 10:14-15). Cho tới lúc ấy, cánh cửa sám hối và hoán cải luôn luôn mở rộng, nhờ các đường lối mầu nhiệm của sự quan phòng và lòng từ ái của Thiên Chúa. Đức Giêsu tự đồng hoá mình với những ai Người sai đi rao giảng, và cảnh cáo rằng từ chối họ có nghĩa là từ chối chính Thiên Chúa, bất kể lý do hay niềm tin tôn giáo nào có thể dẫn tới sự từ chối ấy (x. Lc 10:16).

Bi kịch của Ítraen thời Kinh Thánh theo sau cuộc lưu đày tại Babylon là bối cảnh để ta hiểu lời cầu nguyện dài được cho là của ngôn sứ Barúc (x. Br 1:15; 3:8) trong cuốn sách mang tên ông. Kinh nguyện của Barúc mở đầu bằng lời nhận xét rằng mọi điều mà ngôn sứ Giêrêmia từng loan báo về những tù nhân trong cuộc lưu đày Babylon lần thứ nhất (x. Gr 29:4-23) đều đã ứng nghiệm, và đây là lúc để cầu xin cho các nhà cầm quyền Babylon được sống lâu, để dân Ítraen không phải chịu thêm những hình phạt nghiêm khắc hơn (x. Br 1:11-12), như chính Giêrêmia cũng đã khuyên nhủ vào lúc ấy (x. Gr 29:5-7). Điều căn bản ở đây là ý thức rằng lịch sử của tội lỗi bao trùm mọi thế hệ của Ítraen thời Kinh Thánh, kể từ cuộc giải phóng khỏi đất Ai Cập (x. Br 1:15-22). Sự cứng đầu của dân Ítraen không muốn nghe tiếng nói của Thiên Chúa đã dẫn đến thảm hoạ cho Ítraen là cuộc lưu đày ở Babylon và sự im lặng của Thiên Chúa, hay việc họ không có khả năng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Ở tâm điểm của việc suy xét lại không phải là lịch sử và thân phận của Ítraen, mà là Thiên Chúa. Và đây là sự sám hối thực sự, hành trình hoán cải thực sự.

Những gì xảy ra trong lịch sử không thể được coi như là sự vắng bóng Thiên Chúa; mặc dù nó cũng có thể là do sự kiêu ngạo, độc ác và tàn bạo của nền chính trị quốc tế, nhưng cơ bản phải hiểu nó như là biểu hiện sự “công chính” của Thiên Chúa (Br 1:15) và ước muốn của Người kêu gọi Ítraen trở về với tâm điểm ơn gọi của họ. Khám phá ra sự công chính của Thiên Chúa là một ơn huệ của chính Chúa, vì không thể lẫn lộn nó với mặc cảm tội lỗi hay với sự cam chịu của con người khi phải đối phó với cuộc đời; nó cũng đối nghịch với sự nổi loạn và dứt khoát xa rời Thiên Chúa. Kinh nguyện (của Barúc) bắt đầu với hiện tại và đi đến những khởi đầu của Ítraen thời Kinh Thánh (x. Br 1:15-16); các thảm hoạ và chấn động của cuộc lưu đày bao gồm toàn thể lịch sử của Ítraen, được giải thích trước hết trong ánh sáng của tội lỗi chống lại Thiên Chúa và lời của Người (x. Br 1:17-18). “Phạm tội trước mắt Chúa” là đánh mất mối quan hệ với Người. Nó là một bi kịch về cơ cấu, xảy ra một cách cụ thể, có ý thức, nhưng cũng một cách cẩu thả, bằng việc “không vâng lời” Chúa mỗi ngày, “không nghe tiếng của Người”, là tiếng nói cũng được nghe thấy trong các “giới luật” của Người. Ítraen thời Kinh Thánh không thể tự tạo ra một con đường cho chính mình để có thể có mối quan hệ với Thiên Chúa. Các lời của ngôn sứ Barúc gợi ý rằng thảm hoạ được trải nghiệm trong lịch sử của tội lỗi và lưu đày, dưới cái nhìn của dân ngoại, thậm chí đã gây phương hại đến tính khả tín của các vua chúa, các nhà cai trị, và các ngôn sứ của dân Ítraen (x. Br 1:16). Lịch sử này của tội lỗi và hình phạt không phải là lời nói cuối cùng; lời dạy của Môsê đã từng nhìn thấy trước rằng, với việc đón nhận tiếng gọi hoán cải, Ítraen của thời Kinh Thánh sẽ được Thiên Chúa qui tụ lại (x. Đnl 30:1-4).

Câu truyện của Ítraen thời Kinh Thánh lại trở thành Ítraen của Thiên Chúa cũng là câu truyện của Hội Thánh, mà nhờ đức tin vào Đức Kitô, Hội Thánh trở thành một phần của Ítraen của Thiên Chúa. Cũng như lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Giêsu cho các thành phố xứ Galilê không phải là một phán quyết bỏ rơi chung cuộc, thì cũng thế, cuộc lưu đày của Ítraen thời Kinh Thánh không đánh dấu sự kết thúc của câu truyện. Hành trình hoán cải, vốn phải là sự nhìn nhận tội lỗi của cá nhân và của cơ cấu, chắc chắn luôn luôn là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng nó có nguy cơ bị phung phí do sự tự khẳng định mình vội vã, hay trong một sự khôi phục hình thức và hời hợt các cử chỉ, nghi lễ, công thức và các câu nói không bao giờ có được sức mạnh của một sứ mạng phúc âm hoá.

NGÀY 5 THÁNG 10, 2019

Thứ Bảy Tuần 26 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Br 4:5-12.27-29

Tv 69:33-37

Lc 10:17-24

Trong bài Tin Mừng hôm nay, bảy mươi (hay bảy mươi hai) môn đệ đi truyền giáo trở về đã hớn hở thuật lại cho Thầy Giêsu của họ những thành công mục vụ của họ: “Nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17). Và Đức Giêsu chia vui với các môn đệ: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10:18). Là các môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã nhận được quyền năng đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù, mà chẳng có gì làm hại được chúng ta (x. Lc 10:19). Đây cũng là cùng một lời hứa Đức Giêsu đem đến cho tất cả các môn đệ của Người trong Mc 16:18: “Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” Như thế, Đức Giêsu cảnh báo chúng ta rằng sứ mạng sẽ đầy gian khổ và khó khăn, nhưng với Thần Khí và ân sủng của Người, chúng ta sẽ luôn luôn chiến thắng mọi thế lực sự dư trên thế giới. “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20). Các môn đệ xứng đáng để tự hào và vui mừng vì những thành công trong việc rao giảng Tin Mừng, nhưng lý do chính cho niềm vui này phải là lý do có tính cánh chung. Chúng ta phải có niềm vui của ơn cứu độ, niềm vui của sự cậy trông: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung thành. Hãy đến hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25:21.23). Đó là niềm vui của người tôi tớ vô dụng (x. Lc 17:10) đã làm việc họ phải làm.

Điều thực sự quan trọng đối với các môn đệ là tên của họ đã được “viết trên trời” (Lc 10:20). Theo thành ngữ Hípri của thời ấy, điều này có nghĩa là bảy mươi (bảy mươi hai) môn đệ đi truyền giáo trở về đã được Thiên Chúa nhìn nhận là công dân của nước trời. “Đây là mái nhà thật sự của họ, nước mà Chúa Giêsu xin họ đi mời những người khác mà họ được sai đến. Rồi, đang lúc nói chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đột nhiên ngỏ lời với một người đối thoại khác, Cha của Người trên trời. Là những công dân mới của Nước Thiên Chúa, bảy mươi môn đệ―và chúng ta, những người đang quan sát họ―được hưởng cuộc trò chuyện thân mật của Thiên Chúa. Chúng ta được chứng kiến một thời khắc cầu nguyện thâm sâu của Đức Giêsu với Cha của Người. Đức Giêsu tạ ơn Cha vì ý muốn tỏ lòng thương xót của Cha: những mầu nhiệm vĩ đại đã được mặc khải cho những “người bé mọn như trẻ thơ”, nhưng bị giấu kín đối với những kẻ khôn ngoan thông thái.

Trong bối cảnh lịch sử của Đức Giêsu, các môn đệ được sai đi là những “trẻ thơ” không chỉ vì họ đang thể hiện trải nghiệm truyền giáo của họ, mà cũng vì có thể họ là những người đã không được hưởng một nền giáo dục chính thức về những điều thuộc về Thiên Chúa giống như các rábbi, các ký lục và các lãnh đạo Do Thái có học khác vào thời ấy. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận giá trị của việc đào tạo thần học, nhưng là nhìn nhận rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một hồng ân của Thiên Chúa, và đức tin vào Thiên Chúa là nền tảng của mọi sứ mạng.

Rồi Đức Giêsu lớn tiếng nói lên suy tư của Người về bản chất mối quan hệ giữa Người và Cha. Ở đây, trong một đoạn giống với một đoạn khác trong Mátthêu (x. Mt 11:25-30) và giống với nhiều đoạn khác trong Gioan (x. Ga 3:35; 13:3; 14:9-11), Đức Giêsu mặc khải cho các môn đệ sự hiểu biết hoàn hảo về nhau giữa Cha và Con và sự mở rộng tuyệt đối cho nhau giữa Cha và Con. Đó là một nguồn mạch của niềm vui và sự hiệp thông, nguyên nhân của tính hiệu quả và sứ mạng.

Chính vì mối quan hệ này mà Đức Giêsu có quyền mời gọi người khác đi vào mối quan hệ với Thiên Chúa, đi vào sự hiệp thông thần linh của Người. Trong sự hiệp thông thân mật này, chúng ta biết Chúa Con là Đấng được Cha biết và yêu mến, và Chúa Cha là Đấng được Con biết và yêu mến. Bảy mươi môn đệ, được gọi nhân danh Đức Giêsu đi xoa dịu sự đau khổ và áp bức, đã tìm thấy ý nghĩa sứ mạng của họ nơi Cha và Con và nơi mối hiệp thông tình yêu của Cha và Con. Hôm nay nghe sứ điệp Tin Mừng này, chúng ta tiếp tục được mời gọi đi sâu hơn nữa vào mối quan hệ này. Đương nhiên, chỉ khi dựa vào một cuộc gặp gỡ với Cha như Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta, chúng ta mới có được hồng ân tình yêu của Thiên Chúa để có thể cống hiến cho người khác trong sứ mạng của chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không chỉ xem xét lại các khía cạnh khác nhau của sứ mạng truyền giáo, nhưng cũng tích cực khám phá xem những thực tại này mặc khải cho chúng ta điều gì về Thiên Chúa. Khi chúng ta nhìn nhận bằng đức tin những con đường Thiên Chúa dùng để đến và làm việc với chúng ta, chúng ta có thể để cho Thần Khí của Người thể hiện sứ mạng của Người cho những người khác thông qua chúng ta. Sự hiệp thông sâu xa của các môn đệ với Đức Giêsu, trong sự kết hợp thần linh, yêu thương của Người với Cha, tạo ra niềm vui, niềm đam mê và nhiệt tình đối với nỗ lực truyền giáo. Thay vì vui mừng vì các thành quả truyền giáo của mình, các môn đệ truyền giáo vui mừng trong tình yêu thương, trong sự hiệp thông với Thầy và Chúa của mình, và trong ơn gọi làm những người con trai con gái của Thiên Chúa với tên của mình được ghi trên trời.

Đây là ý nghĩa Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết ra trong Tông Huấn Evangelii Gaudium của ngài, số 21:

Niềm vui Tin Mừng làm sinh động cộng đoàn các môn đệ là một niềm vui truyền giáo. Bảy mươi hai môn đệ đã cảm nhận niềm vui này khi họ từ nơi truyền giáo trở về (xem Lc 10:17). Đức Giêsu đã cảm nhận niềm vui này khi ngài vui mừng hoan lạc trong Thánh Thần và ca tụng Cha vì đã mặc khải mình cho những người nghèo và những người bé mọn (Lc 10:21). Niềm vui này cũng đã được cảm nhận bởi những người trở lại đầu tiên khi họ kinh ngạc nghe các tông đồ giảng “bằng tiếng mẹ đẻ của họ” (Cv 2:6) vào ngày lễ Ngũ Tuần. Niềm vui này là một dấu chỉ rằng Tin Mừng đã được công bố và đang sinh hoa kết quả. Nhưng động lực để đi ra và trao ban, ra khỏi chính mình, không ngừng dấn bước đi gieo hạt giống tốt, vẫn luôn luôn hiện diện hôm nay. Chúa nói: “Ta hãy đi sang các làng lân cận để Thầy cũng giảng ở đó, vì đó chính là lý do mà Thầy đến” (Mc 1:38). Mỗi khi hạt giống đã được gieo tại một nơi nào, Ngài không ở lại đó để cắt nghĩa hay làm thêm các dấu lạ; Thần Khí thúc đẩy Ngài ra đi tới các thành khác.

NGÀY 6 THÁNG 10, 2019

Chúa Nhật Tuần 27 Mùa Thường Niên - Năm C

Kb 1:2-3; 2:2-4

Tv 95:1-2.6-9

2 Tm 1:6-8.13-14

Lc 17:5-10

Tin Mừng hôm nay cung cấp một tường thuật rất ý nghĩa về đức tin và một dụ ngôn vắn về vai trò làm tôi tớ Thiên Chúa của chúng ta. Hai giáo huấn khác nhau này trong Tin Mừng Luca được trình bày theo sau một giới luật gắt gao của Đức Giêsu về tội và sự tha thứ, và dẫn tới câu truyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi. Không có mối liên kết rõ ràng, lôgích nào giữa các giáo huấn của Đức Giêsu trong Luca 17, hay giữa các giáo huấn ấy và câu truyện chữa lành theo sau. Tuy nhiên, khi suy niệm về ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu, chúng ta trở thành những bạn đồng hành với các môn đệ (ở đây gọi là tông đồ) khi các ngài cầu xin với Chúa Giêsu: “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17:5).

Đáp lại lời cầu xin tăng thêm đức tin (rõ ràng là một lời cầu xin thánh thiện cho sự tăng trưởng thiêng liêng), Đức Giêsu nêu lên một sự so sánh giữa hai thái cực, phối hợp hình ảnh một hạt cải nhỏ xíu trong ngạn ngữ với hình ảnh một cây dâu to lớn. Khi sử dụng hình ảnh ngạn ngữ này, Đức Giêsu thúc đẩy chúng ta vượt lên trên lối suy nghĩ lôgích thường ngày, bằng cách gợi ý rằng đức tin không hoạt động theo các tiêu chuẩn nhân loại bình thường, nhưng có vẻ khó hiểu đối với con mắt của loài người giống như một cây cải ở giữa đại dương. Tự cơ bản, đức tin là sự tín thác sâu xa vào Thiên Chúa và theo các cách thức Thiên Chúa hoạt động. Có lẽ mọi người truyền giáo có chút kinh nghiệm đều đã từng nhìn thấy những kết quả được tạo ra bởi hành động của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh có vẻ hoàn toàn chống lại mọi kết quả. Bài Tin Mừng hôm nay thách thức chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa vượt lên trên các giới hạn của cái lôgích nhân loại và ý nghĩa của cái có thể xảy ra, nhờ đó chúng ta trở nên một với tinh thần, trí tưởng tượng, lối suy nghĩ và trái tim của Thiên Chúa.

“Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: ‘Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con’” (Lc 17:5-6). Ở đây Thánh Luca gọi mười hai người đã được Đức Giêsu chọn lúc khởi đầu sứ vụ của Người (x. Lc 6:12-16) là “Tông Đồ”. Có nghĩa là “được sai đi”. Trong khi các sách Tin Mừng khác chỉ sử dụng thuật ngữ này một lần duy nhất để chỉ về nhóm cụ thể các môn đệ này của Đức Giêsu, Luca sử dụng từ “tông đồ” sáu lần trong sách Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông Đồ. Hội Thánh sơ thời ý thức rằng đặc quyền của Nhóm Mười Hai này là không thể chuyển nhượng; tính xác thực về sự uỷ nhiệm và sứ mạng của họ được dựa trên sự chọn lựa của chính Đức Giêsu. Người đã chọn và sai họ đi. Vì thế những tông đồ ấy là những chứng nhân chính thức cho Tin Mừng về Chúa Phục Sinh! Và theo nghĩa này, họ sẽ phải có đủ đức tin vào Người. Họ là những chứng nhân ưu việt về những lời giảng dạy và những phép lạ của Đức Giêsu (x. Lc 18:31), và đồng thời họ cũng là những con người mỏng dòn như tất cả chúng ta, cũng có những hoài nghi và thiếu lòng tin (x. Lc 24:11.25.38-39). Đó là lý do của lời cầu xin họ dâng lên Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, “Xin tăng thêm lòng tin cho chúng con”, với niềm tin chắc rằng Người là Thiên Chúa.

Điều này có nghĩa là gì đối với tất cả chúng ta là những người “được sai đi” hôm nay? Chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng chúng ta rất thiếu lòng tin trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho thế giới. Có lẽ Đức Giêsu không bảo chúng ta, “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc,’ nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17:6). Do đó, không thể có lòng tin để chuyển núi dời non nếu chúng ta thiếu lòng tin cơ bản vào Đức Giêsu là Chúa, Đức Giêsu phục sinh và đang sống trong Hội Thánh của Người. Có ích gì khi muốn có một đức tin làm được phép lạ trước đám đông, hay có khả năng chữa bệnh, hay có sức mạnh phi thường gây kinh ngạc cho người ngoại giáo và người có đạo hôm nay? Bản thân Đức Giêsu đã từng làm nhiều, rất nhiều phép lạ trước mặt những người đương thời và các tông đồ của Người, nhưng điều đó đã không tăng thêm đức tin cho họ. Điều cốt yếu đối với chúng ta là có lòng khiêm nhường của các tông đồ để xin Chúa không ngừng đến trợ giúp chúng ta. “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” Đây là lời thốt lên của người cha có đứa con bị quỉ ám mắc bệnh động kinh (Mc 9:24; x. Lc 9:37-43). Mỗi khi đến bàn tiệc Thánh Thể, được gặp Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta hãy xin Người ban đức tin cần thiết cho chúng ta để gặp Người trong cuộc sống và trong thế giới của chúng ta. Chỉ có cầu nguyện không ngừng, linh hồn của việc truyền giáo, mới làm cho đức tin chúng ta sống động.

Ngay sau đó (x. Lc 17:5-10), đoạn tường thuật của Tin Mừng Lc đặt chúng ta đối diện với một cảnh được lấy từ đời sống hằng ngày trong nhà để dạy chúng ta về việc tông đồ: dù công việc chúng ta làm có những kết quả tuyệt vời đến đâu, chúng ta vẫn chỉ là đang chu toàn nhiệm vụ được Chúa giao cho. Trong nếp sống hằng ngày vào thời Đức Giêsu, có sự thiết lập rõ ràng những mong đợi của chủ và tớ liên quan đến vai trò của mỗi người. Chủ ra lệnh và đầy tớ thì thi hành. Đầy tớ được yêu cầu chuyển từ công việc đồng áng sang công việc nhà và thậm chí không được nghỉ. Đầy tớ không thể phản đối vì mệt, đói hay khát. Chắc chắn không được hiểu những lời của Chúa Giêsu như là một sự biện minh cho thể chế nô lệ thời xưa; Người chỉ đang sử dụng một thực tế xã hội thời xưa như một ẩn dụ để gợi ý về một sự giống nhau giữa thực tế này với việc chúng ta phục vụ Thiên Chúa.

Khi Đức Giêsu đặt câu hỏi tu từ: “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?” Người hỏi đám đông, bao gồm cả chúng ta, và chờ đợi câu trả lời đương nhiên là “Không”. Rồi Đức Giêsu nói tiếp rằng khi chúng ta đã làm tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, chúng ta phải thưa với Người, “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những gì chúng tôi phải làm.” Hình ảnh cực đoan này có ý là một bài học sư phạm để hoán cải người môn đệ truyền giáo về với cái lôgích của đức tin―không phải hiệu quả và lợi ích của việc phục vụ, nhưng là kết quả của đức tin là sự hiệp thông với Chúa Giêsu.

Bằng các lời nói của chúng ta và qua kinh nghiệm hằng ngày, Đức Giêsu đặt chúng ta đối diện với sự thật rằng việc mong đợi phần thưởng thì không tương xứng với thực tại. Tuy nhiên, cái tương xứng ở đây là sự hiểu biết rằng Thiên Chúa là ai và chúng ta mắc nợ Người điều gì. Đức Giêsu muốn chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa mong đợi chúng ta một sự cam kết nghiêm túc và chân thành với công việc mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta làm, đó là sứ mạng làm cho Đức Kitô được biết đến trong thế giới.

Hai bài đọc khác của ngày hôm nay mời chúng ta suy tư về các chủ đề đức tin và việc phục vụ Thiên Chúa này, nhưng từ hai viễn tượng khác. Sách ngôn sứ Khabacúc, được viết một thời gian ngắn trước khi dân Do Thái bị lưu đày xa quê hương vào thế kỷ 6 trước C.N., kêu cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa giữa cảnh phá phách và bạo tàn. Đáp lại, Thiên Chúa tuyên bố rằng một số kẻ nghênh ngang tự đắc mặc dù họ không có sự “công chính”, trong khi “người công chính sẽ sống bởi đức tin” (Kb 2:4). Khabacúc nhấn mạnh rằng, trái với những kẻ phá phách và bạo tàn, một số người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Đây là đức tin đơn sơ và tinh tuyền; đây là cái làm cho họ nên công chính trước mặt Thiên Chúa.

Khi Phaolô gặp Đức Giêsu Phục Sinh, cách hiểu về đức tin của Khabacúc đã được biến đổi. Ngài bắt đầu biết được những cách thức phi thường của Thiên Chúa khi yêu thương chúng ta, khoảng cách mà Thiên Chúa đã vượt qua để đưa chúng ta trở về với mối quan hệ đúng đắn với Người. Phaolô thấy rằng sự tin tưởng vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa cũng hoạt động trên chúng ta, trong Đức Giêsu Kitô. Phaolô đã khám phá ra chính sự tự do và đức tin trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, và nó thúc đẩy ngài và mọi tín hữu sau ngài đi ra thế giới để làm cho mọi người biết tin mừng về tình yêu tái sinh của Thiên Chúa, và loan báo cuộc Phục Sinh cứu độ của Chúa Giêsu.

Cách nhìn mới của đức tin về các sự vật được tập trung vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô đem lại ơn cứu độ bởi vì nơi Người cuộc sống của chúng ta được mở ra một cách triệt để cho một tình yêu đi trước chúng ta, một tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong, hành động trong chúng ta và qua chúng ta. Điều này được thấy rõ ràng trong cách chú giải của Phaolô về một bản văn từ sách Đệ Nhị Luật, một chú giải phù hợp với trọng tâm của sứ điệp Cựu Ước. Ông Môsê nói với dân rằng lệnh truyền của Thiên Chúa không ở quá cao cũng không ở quá xa chúng ta. Không cần phải nói: “Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi?”, hay “Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi?” (Đnl 30:11-14). Phaolô giải thích sự gần gũi của lời Thiên Chúa bằng sự hiện diện của Đức Kitô trong các Kitô hữu. “Ðừng tự hỏi: ‘Ai sẽ lên trời?’ (ngụ ý là: để đem Ðức Kitô xuống), hay ‘Ai sẽ xuống âm phủ?’ (ngụ ý là: để đưa Ðức Kitô lên từ cõi chết)” (Rm 10:6-7). Đức Kitô đã xuống trần gian và đã sống lại từ cõi chết; bằng việc nhập thể và phục sinh của Người, Con Thiên Chúa đã ôm ấp toàn thể đời sống và lịch sử loài người, và bây giờ đang ở trong lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Đức tin biết rằng Thiên Chúa đã đến gần chúng ta, Đức Kitô đã được ban cho chúng ta như một ân huệ lớn lao nhằm biến đổi bên trong chúng ta, cư ngụ trong chúng ta và nhờ đó ban cho chúng ta ánh sáng chiếu soi nguồn gốc và chung cuộc của sự sống.

Do đó chúng ta thấy được sự khác biệt mà đức tin tạo ra cho chúng ta. Những ai tin thì được biến đổi bởi tình yêu mà họ đã mở lòng mình ra cho trong đức tin. Nhờ sự mở lòng cho món quà tình yêu nguyên thuỷ này, cuộc sống họ được mở rộng và triển nở. “Không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Ðức Kitô ngự trong tâm hồn” (Ep 3:17). Sự ý thức về mình của người tín hữu bây giờ được mở rộng bởi vì sự hiện diện của một người khác; bây giờ sự tự thức ấy sống trong người khác này và vì vậy, trong tình yêu, sự sống mang lấy một hơi thở hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hoạt động. Người Kitô hữu có thể nhìn bằng con mắt của Đức Giêsu và chia sẻ tinh thần của Người, thái độ con thảo của Người, vì họ được chia sẻ tình yêu của Người là chính Thần Khí. Trong tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta một cách nào đó nhận được cái nhìn của Người. Nếu không nên giống Người trong tình yêu, không có sự hiện diện của Thần Khí, thì không thể tuyên xưng Người là Chúa (x. 1 Cr 12:3). (ĐGH Phanxicô, Lumen Fidei, 20-21).

NGÀY 7 THÁNG 10, 2019

Thứ Hai Tuần 27 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Đức Mẹ Mân Côi

Gn 1:1–2:2.11

Gn 2:3-5.8

Lc 10:25-37

Luca trình bày dụ ngôn này trong bối cảnh của một bản tường thuật rộng hơn, trong đó Đức Giêsu gặp một người luật sĩ muốn thử Người. Đức Giêsu đã từng bị thử thách khi khởi đầu sứ vụ, khi Người được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu quỉ cám dỗ. Ba lần trong cuộc cám dỗ này (x. Lc 4:2.12.13), quỉ thử thách để xem Đức Giêsu có thật là Con Thiên Chúa và có trung thành với ý muốn của Thiên Chúa hay không. Trong lần “thử thách” thứ ba, Đức Giêsu đã đuổi quỉ đi và nói những lời cuối cùng cho cuộc chiến với Satan: “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Lc 4:12).

Bây giờ đoạn Tin Mừng Luca bắt đầu kể, “Có người thông luật kia đứng lên hỏi Ðức Giêsu để thử Người” (Lc 10:25). Như thế, người đọc chăm chú đã từng thấy Đức Giêsu chứng tỏ Người thật sự là Con Thiên Chúa thì biết rằng người thông luật kia đang tìm cách làm một điều gì đó mà chính quỉ đã không làm được và Đức Giêsu đã minh nhiên cấm làm; đúng hơn, chính người thông luật kia mới là kẻ sắp bị thử thách.

Dụ ngôn về người Samaria nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng và dễ hình dung ra, nhưng bài Tin Mừng hôm nay mở đầu bằng lời giới thiệu một người thông luật đến gần Đức Giêsu để thử Người. Có rất nhiều chuyên gia về khoa học hạnh phúc trong thế giới chúng ta muốn thử thách các tông đồ Tin Mừng hôm nay. Chúng tôi phải làm gì để có sự sống đời đời? Chúng tôi có thể làm thế nào để đạt hạnh phúc? Câu trả lời của chúng ta không thể là gì khác hơn lời dạy của Thầy Chí Thánh. Để đạt hạnh phúc, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn, và yêu thương đồng loại như chính mình. Mến Chúa và yêu người. Mến Chúa bằng cách thương yêu người khác. Yêu cận nhân như Chúa muốn! Nhưng cụ thể phải làm thế nào?

Đức Giêsu cho chúng ta một ví dụ qua câu truyện về người Samaria tốt lành. Luca là tác giả Tin Mừng duy nhất kể lại câu truyện tuyệt vời này từ lời giảng của Đức Giêsu. “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô”: nghĩa là, người ấy rời bỏ khu vực đền thờ, nơi thánh, thành thánh, để đi đến khu vực ngoại vi, đến “vùng đáy” của trái đất. Giêrikhô ở không xa Biển Chết, trên thực tế là một trong những thành phố thấp hèn nhất trên thế giới. Người kia rời núi Xion để đi xuống vực sâu, một nơi đầy những bất ổn và rối loạn của trần gian. Và có thể đoán trước được rằng người ấy sẽ rơi vào tay kẻ cướp. Đây chính xác là tình huống của người thời nay, người không có lòng tin, người từ bỏ nơi thánh thiêng để ngày qua ngày chìm xuống vực sâu của những bất trắc và giới hạn. Và trên đường đi có những tên trộm cướp lấy đi hết mọi thứ của người ấy, và bỏ mặc người ấy nửa sống nửa chết bên đường. Tệ thay, một tư tế thản nhiên đi ngang qua, bỏ mặc người bị cướp bên đường. Rồi một thầy Lêvi cũng đi ngang qua, trông thấy nạn nhân và tiếp tục bỏ đi; bản văn không cho chúng ta biết nơi người này xuất phát. Giống như người tư tế, người này không quan tâm tới người bị cướp. “Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10:33-34). Người Samaria tạm dừng hành trình của mình để chăm sóc một người xa lạ, anh em của ông trong nhân tính. Đức Giêsu cũng làm giống như thế, một cách siêu vời, qua cái chết thục tội của Người. Người tắm rửa chúng ta trong máu và nước chảy từ cạnh sườn Người trên Thập Giá. Hôm sau, người Samaria trao cho chủ quán trọ hai đồng bạc, xin người này chăm sóc cho nạn nhân. Đức Giêsu đã trả giá trên thập giá để chữa lành chúng ta, để chuộc lại chúng ta. Người sẵn sàng tiếp tục trả mọi món nợ chúng ta mắc phải do tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày. Trong ba người đi đường, người thân cận của người bị cướp chính là người Samaria biết tỏ lòng nhân hậu với nạn nhân.

Câu truyện này dạy bài học gì cho chúng ta là những người được gọi đi truyền giáo? Chỉ có tình yêu là thứ có tác dụng phúc âm hoá hiệu quả. Vấn đề không phải là phát triển một tôn giáo của phụng tự, của luân lý đạo đức, của các qui định pháp lý; nhưng là làm sao cho những người nam người nữ bị thương tổn của Đức Giêsu mà chúng ta gặp trên đường Giêrikhô trở thành những người thân cận của chúng ta. Đó là bảo đảm rằng các chương trình chi tiết của chúng ta phải dành ưu tiên cho việc chăm sóc những người bị thương tổn mà chúng ta gặp trên đường. Đó là sơ cứu cho họ bằng những gì chúng ta có: dầu của lòng thương xót và rượu của tình yêu thương. Đó là đưa loài người ngày càng đến gần hơn với lòng nhân hậu cứu độ của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Kitô. Chính lòng tin vào Đấng đã chết và sống lại làm cho chúng ta càng ngày càng quen thuộc hơn với các cách hoạt động của Thiên Chúa, với các tiêu chí cứu độ của hoạt động này. Người Samaria tốt lành không phải tự bản thân mình. Ông tốt lành nhờ lòng tốt lành của Thiên Chúa, Đấng chúng ta có thể đón nhận và hiệp thông nhờ đức tin.

NGÀY 8 THÁNG 10, 2019

Thứ Ba Tuần 27 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Gn 3:1-10

Tv 130:1b-2.3-4ab.7-8

Lc 10:38-42

“Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gn 3:2). Sau mấy lần thoái thác, Giona thấy mình phải đối diện với tiếng gọi cương quyết của Thiên Chúa. Chúa đã không quên ông, Người lặp lại lời kêu gọi ông thi hành sứ mạng: lần này Giona không thể tránh né. Giống như ông Giona, biết bao lần chúng ta sẵn sàng kiếm cớ để thoái thác bổn phận truyền giáo của mình. Thế giới chúng ta đang sống và được sai đi thi hành sứ mạng đa phần là thế giới ngoại giáo khiến chúng ta thường xuyên gặp thấy Ninivê ở mọi cửa nhà, mọi thành phố, mọi ngã rẽ trên đường. Ông Giona đứng dậy, và theo lời của Chúa, ra đi dến Ninivê, một thành phố vô cùng rộng lớn: phải mất ba ngày để đi ngang qua thành. Thế giới truyền giáo có vẻ cũng rộng lớn mênh mông đối với chúng ta và chúng ta phải đối diện với thái độ vô tín ngưỡng hầu như không thể xâm nhập được. Lối sống hiện đại, xã hội tiêu thụ, chạy đua điên rồ để kiếm tiền, và một thứ hạnh phúc ảo tưởng là một thành phố Ninivê vĩ đại.

“Còn bốn mươi ngày nữa thành Ninivê sẽ bị huỷ diệt” (Gn 3:3). Chúng ta có thể hiểu được tại sao vị ngôn sứ đã kiệm lời như thế, vì ông đang nói với những “người ngoại giáo xấu xa” ấy, những người mà ông muốn thấy sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng Thiên Chúa là Thiên Chúa, đầy lòng từ bi đối với các con cái của Người, và mặc dù vị ngôn sứ không tin vào khả năng hối cải của họ, dân thành Ninivê này đã thực sự hối cải. “Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ” (Gn 3:5). Lời rao giảng của các ngôn sứ trong nhiều thế kỷ đã không đủ để cải hoá dân Ítraen, nhưng ở đây lời rao giảng chỉ trong một ngày đã đủ để cải hoá những người dân bị khinh bỉ của thành Ninivê. Đây chính là điều kỳ diệu của Thiên Chúa: Người luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên trong các kỳ vọng mục vụ của chúng ta. Chính Đức Giêsu đã nhắc đến điều này trong Tin Mừng: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giona rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giona nữa” (Mt 12:41). Và Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót họ; nói một cách đơn giản, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn họ ăn năn hối cải (x. Ed 33:11). Cả khi Thiên Chúa có vẻ như đe doạ bằng sự trừng phạt, chính tình yêu và chỉ có tình yêu chiến thắng và cứu thoát trong đức tin. Thế giới cần được nghe lại lời rao giảng này hôm nay.

Ông Giona được sai đến thành Ninivê, gặp gỡ người dân Ninivê bằng sự hiện diện ngôn sứ và lời giảng của ông về sự hoán cải. Đức Giêsu được Chúa Cha sai đi vào trung tâm của thành phố, vào nhà của hai chị em Mátta và Maria. Niềm vui của sự hối cải bất ngờ của dân thành Ninivê khơi dậy sự phản kháng trong lòng ông Giona. Niềm vui của việc phục vụ và lắng nghe trong sự hiện diện của Thầy [Giêsu] làm cho Mátta và Maria trở thành những chị em đích thực trong tư cách môn đệ truyền giáo của Đức Giêsu.

Bước qua ngưỡng cửa một căn nhà có nghĩa là đi vào con tim của những mối quan hệ và khám phá ra, với niềm vui và tình thương, những vết thương và sự yếu đuối của đời sống gia đình. Chúng ta được làm bằng xương là thịt, điều này tỏ lộ cho chúng ta mọi mối quan hệ sâu xa xen lẫn với những người có những nhu cầu mà chúng ta tìm cách giúp đỡ; Đức Giêsu, vừa là người vừa là Chúa của lịch sử chúng ta, có những nét của một người có thể vô cùng gần gũi với trái tim chúng ta. Đủ gần gũi để đi vào nhà chúng ta. Đức Giêsu―trên đường đi Giêrusalem, trên đường đi đến Mầu Nhiệm chết và phục sinh của Người―khi vào nhà hai chị em Mátta và Maria, Người đã bước qua ngưỡng cửa lòng của họ.

Căn nhà ở Bêtania ấy, một mái ấm của tình bạn và tình thương, tỏ lộ cho chúng ta thấy nhân tính của Đức Kitô, từ chối sống dửng dưng trước những đau khổ và khó khăn của con người: Người khóc, lắng nghe, an ủi, giảng dạy, lau nước mắt, và hiến mình làm của ăn và của uống (Thánh Thể). “Vào nhà” có nghĩa là thế đấy. Đức Giêsu thân mật vào nhà ở Bêtania. Người vào nhà như một người bạn, thể hiện tất cả trái tim và các mối quan hệ của Người với người sống và người chết (x. Ga 11). Trong sứ mạng Chúa Cha trao cho Người, Đức Giêsu dấn mình hoàn toàn. Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đảo ngược cách chúng ta suy nghĩ và hành động: qua hình ảnh chủ đạo về người phụ nữ hoàn toàn để mình bị dao động và mất hút vào việc phục vụ, các qui luật mới được đề nghị về sự hiếu khách mà người môn đệ truyền giáo phải dành cho Đức Kitô, về sự cứu rỗi mà chúng ta sống và thông truyền.

Ơn gọi của Mátta và của Maria là hai ơn gọi khác nhau và bổ sung cho nhau, được thúc đẩy bởi cùng một ý hướng: nhận ra tính độc đáo của Đấng gõ ngoài cửa (x. Kh 3:20). Do đó, hai người phụ nữ này không biểu thị cho một phản đề như nhiều người vẫn thường gợi ý. Phục vụ và lắng nghe là những hành động hỗ tương hơn là đối lập nhau trong sứ mạng Đức Giêsu trao cho Hội Thánh vì sự cứu rỗi của thế giới. Sự hiện diện của Đức Giêsu kêu gọi chúng ta lên đường đi vào trái tim của mọi người bằng việc lắng nghe Lời Chúa và bằng sự phục vụ huynh đệ, bằng việc rao giảng sự Phục Sinh và bằng bàn tiệc Thánh Thể của sự hoà giải tạo nên mối hiệp thông và hiệp nhất. Tất cả điều này xảy ra ở Bêtania, ở đó cái chết của Ladarô bạn Đức Giêsu là cơ hội để chúng ta thanh tẩy và tăng cường việc lắng nghe của chính mình, việc phục vụ của chính mình, niềm tin của chính mình vào sự chết và sống lại của Đức Giêsu, Bạn và Chúa chúng ta.

NGÀY 9 THÁNG 10, 2019

Thứ Tư Tuần 27 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Điônysiô, giám mục, và Các Bạn Tử Đạo

Lễ Nhớ Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục

Gn 4:1-11

Tv 86:3-6.9-10

Lc 11:1-4

Kinh Lạy Cha không chỉ đơn thuần là một kinh nguyện; mà như Tertullian nói, kinh Lạy Cha là “bản tóm lược của toàn thể Tin Mừng”, vì trong đó chúng ta tìm thấy những nguyên tắc cơ bản, những niềm hi vọng thâm sâu nhất, và những nhu cầu quyết định nhất của các môn đệ Đức Giêsu.

Tin Mừng Luca trình bày trước hết về hồng ân được gọi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô là “Cha”. Coi Thiên Chúa là một người Cha không phải không có trong Cựu Ước (x. Đnl 32:6; Ml 2:10; Gr 3:19; 31:9; và Tv 103:13). Nhưng điều mới mẻ ở đây là xưng hô với Thiên Chúa là Cha, như Đức Giêsu xưng hô với Cha Người, với sự dịu dàng và thân mật của một đứa con thưa với cha mình: “Cha ơi!” Chúa Giêsu có lý khi gọi Thiên Chúa là “Abba”, vì Người là Con của Cha hằng hữu. Trong đức tin, khi dạy các môn đệ cầu nguyện, Đức Giêsu mời họ hướng về Thiên Chúa như là một người Cha hằng hữu, đầy lòng nhân từ và rất mực yêu thương. Đức Giêsu mở ra cho các môn đệ tình hiệp thông con thảo của Người. Trong Tin Mừng thứ ba, Kinh Lạy Cha là điểm đến từ câu hỏi mà người thông luật hỏi Đức Giêsu về điều người ta phải làm để được sự sống đời đời (x. Lc 10:25tt): mở lòng lắng nghe là điều có tính quyết định, cũng như phải có lòng thương xót khi đối xử với mọi người không phân biệt một ai. Sứ mạng của Đức Giêsu trong đức tin và kinh nguyện mở lòng chúng ta ra cho tình cha của Thiên Chúa như là nền tảng cho một mối quan hệ với người khác như là những anh chị em mình.

Một trong những niềm mong đợi thâm sâu nhất được làm nổi bật bởi Kinh Lạy Cha là lời nguyện cho danh Thiên Chúa được cả sáng. Đúng là tự bản chất Danh của Thiên Chúa đã là thánh rồi (x. Lv 11:44; 19:2; Tv 33:21). Nhưng niềm mong đợi danh Chúa được cả sáng cho thấy mối cam kết sống với tư cách là những con người thuộc về Thiên Chúa: “Các ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta … Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en” (Lv 22:31-32). Theo truyền thống Cựu Ước mà Kinh Lạy Cha có gốc rễ trong đó, cách tốt nhất để danh Thiên Chúa được cả sáng chính là những ai xưng mình là dân của Thiên Chúa thì phải sống theo ý muốn của Người.

Yếu tố thứ hai của niềm mong đợi mà Kinh Lạy Cha ban tặng là việc Nước Chúa trị đến. Đức Giêsu nói rõ ràng rằng Nước của Cha Người đang hiện diện và hoạt động trong lịch sử. Người tuyên bố rằng Thiên Chúa đang đi vào lịch sử loài người để mở ra một kỷ nguyên mới, trong đó không một ai cảm thấy mình cô đơn và chúng ta có thể xây dựng một thế giới công bằng hơn, một xã hội hoà bình và đầy tình huynh đệ mà ở đó nhân phẩm của mỗi người được tôn trọng. Khi chúng ta nói “Nước Cha trị đến”, chúng ta diễn tả niềm mong đợi rằng ý Chúa được thể hiện giữa chúng ta, như là ân sủng và đồng thời như là nhiệm vụ thường hằng của tự do và trách nhiệm của con người.

Lời cầu xin thứ nhất trong bản kinh Lạy Cha của Luca được diễn tả bằng những lời này: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Lc 11:3). Lời cầu xin này có thể gói ghém hai ý nghĩa. Một đàng, trước nguy cơ quên mất cảm giác ngạc nhiên và biết ơn của chúng ta, Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta về nhu cầu xin Chúa ban cho lương thực hằng ngày. Đàng khác, Đức Giêsu không dạy chúng ta xin Cha cho “con”, nhưng là cho “chúng con” lương thực hằng ngày”, có lẽ là muốn nhấn mạnh nhu cầu chia sẻ trong tình bác ái với người khác: đời sống thực sự là kết quả của sự hiệp thông và chia sẻ.

Lời cầu xin thứ hai là xin ơn tha thứ. Luca giả thiết rằng, để xin ơn tha thứ thì cần phải nhìn nhận rằng mọi người, bất kể là ai, đều phạm lỗi lầm và chúng ta tất cả đều cần lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Lc 5:8; 6:39-42). Khởi đi từ giả thiết này, tác giả Tin Mừng thứ ba đưa vào một sự ý thức rằng hiệu quả ơn tha thứ của Thiên Chúa dẫn chúng ta tới việc phải đáp lại bằng cách tha thứ cho người khác (x. Mt 6:14-15). Ơn tha thứ của Thiên Chúa luôn luôn được ban cho chúng ta, được ban cho một cách nhưng không. Hiệu quả của nó nơi mỗi người chúng ta tuỳ thuộc vào việc chúng ta sẵn sàng để cho nó tác động đến đời sống chúng ta, các mối quan hệ của chúng ta, và các tình cảm của chúng ta.

Và sau cùng, Kinh Lạy Cha cho chúng ta có một lời cầu xin thứ ba: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11:4; x. Ga 17:15). Trước tiên chúng ta đã nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, và bây giờ Cha chúng ta giúp chúng ta lớn lên trong sự ý thức về tính yếu đuối, dòn mỏng của mình. Chúng ta không xin Chúa giúp chúng ta tránh cám dỗ, nhưng xin giúp chúng ta chiến thắng cám dỗ.

Cầu nguyện luôn luôn là một trải nghiệm về mối quan hệ với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ Đức Kitô trong Thánh Thần. Như một bản tóm lược Tin Mừng, Kinh Lạy Cha cống hiến cho chúng ta những tiêu chí nền tảng cho sự gặp gỡ này và cho sứ mạng theo sau cuộc gặp. Ơn hướng về Thiên Chúa là Cha giúp chúng ta sống với nhau như anh chị em. Bổn phận làm cho danh Cha cả sáng lôi kéo chúng ta vào việc xây dựng nước Chúa, với sự trợ giúp của ơn Chúa. Phúc lành của ơn tha thứ được Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô ban cho chúng ta khiến chúng ta ý thức về nhu cầu lớn lao phải khởi động và khích lệ các tiến trình hoà giải chân chính, là cái không chỉ dẫn đến trải nghiệm về sự tha thứ, mà còn dần dần dấn đến việc tận diệt tội lỗi.

Tình phụ tử của Thiên Chúa, được mặc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô (x. Ga 12:45; 14:9), làm cho cộng đoàn các môn đệ truyền giáo trở thành một gia đình thực sự, ở đó mọi người được mời vào dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Trong chuyển động được Cha sai đến và trở về cùng Cha, Đức Giêsu biến sứ mạng của chính mình trở thành sứ mạng của chúng ta. Đó là sứ mạng của Hội Thánh Người vì phần rỗi của thế gian (x. Ga 8). Nếu mọi tình phụ tử đều bắt nguồn nơi Thiên Chúa (x. Ep 3:14-21), thì trong Hội Thánh của Con Thiên Chúa, Thần Khí của Chúa Phục Sinh tái sinh tất cả chúng ta như là những người con trai con gái của người Cha chung nhờ phép rửa. Nước Thiên Chúa được hoàn thành nhờ Đức Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Người, Nước ấy tìm thấy sự khởi đầu và mầm mống trên trái đất này trong Hội Thánh lữ hành của Người, một bí tích cứu độ phổ quát được Thiên Chúa Cha ban cho mọi người.

NGÀY 10 THÁNG 10, 2019

Thứ Năm Tuần 27 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Điônysiô, giám mục, và Các Bạn Tử Đạo

Lễ Nhớ Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục

Ml 3:13-20b

Tv 1:1-4.6

Lc 11:5-13

Trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 11:5-13), chúng ta thấy nổi bật chủ đề về tình bạn. Các sách Tin Mừng có rất nhiều ví dụ về việc Đức Giêsu đến gần những người khác trong tình bạn hữu. Thánh Luca cho thấy một Đức Giêsu đầy thương cảm khi tiếp xúc với những người phong cùi, người bại liệt, người tội lỗi, người thu thuế, người đại đội trưởng, những bà goá, những người bị quỉ ám, những người bị động kinh―một danh sách rất dài. Bản thân Đức Giêsu là người Samaria nhân hậu (Lc 10:29-37) và là người cha đầy thương cảm (Lc 15:11-32). Người quảng đại và tự nguyện mở rộng bàn tay thương xót của Người với đầy tình bằng hữu.

Tin Mừng Gioan cũng cung cấp những nhận thức sâu sắc về Đức Giêsu và tình bạn. Tình yêu-bằng hữu của Đức Giêsu đối với ba chị em Maria, Mátta và Ladarô được Gioan mô tả trong chương mười một: “Ðức Giêsu thương yêu cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11:5). Khi được tin Ladarô chết, Đức Giêsu nói, “Anh bạn của chúng ta đang ngủ thôi” (Ga 11:11), và sau đó Đức Giêsu khóc khi biết Ladarô đã chết: “Những người Do Thái nói, ‘Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!’” (Ga 11:36).

Ở bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu ban cho chúng ta giới luật yêu thương nhau; Người nói: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em…” (Ga 11:13-16). Thế nên Đức Giêsu tỏ lộ chiều sâu của tình yêu-bằng hữu bằng cách chết trên thập giá vì chúng ta. Như Thánh Phaolô ghi nhận, “Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).

Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi trải nghiệm rằng Đức Giêsu là người bạn, thực sự là người bạn thân thiết của mọi người. Tình bạn với Đức Kitô có nghĩa là lớn lên trong sự thân mật với Thầy, cũng như một đời sống trong Đức Kitô. Chiều kích thâm sâu của tình bạn như thế làm cho Chúa Thánh Thần sống động trong chúng ta. Tình bạn với Đức Kitô, cả trong khi yếu đau bệnh tật, giúp chúng ta có sức mạnh để lướt thắng nỗi cay đắng, mệt mỏi của cuộc đời, và mọi nỗi thất vọng. Tình bạn là “chuyện của con tim”, trong đó chúng ta tỏ bày cho người khác biết những gì chất chứa trong tâm khảm mình, với lòng tin tưởng và cởi mở với nhau. Sự tăng trưởng trong tình bạn xảy ra nhờ sự mở lòng ra cho nhau. Trong tiến trình này, chúng ta thấy mình đi vào một mối quan hệ sâu hơn với Thiên Chúa và với tha nhân. Người ta sẽ được khích lệ để theo Đức Kitô khi họ thấy được tình bạn của Người đã biến đổi như thế nào người môn đệ truyền giáo đang rao giảng và làm chứng.

Tình bạn được mô tả cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không đủ để đạt được những gì chúng ta tìm kiếm. Nhu cầu của chúng ta phải được hỗ trợ bởi sự kiên trì cầu xin, bởi lòng tin chắc chắn của người cầu xin, và trong khả năng ban cho của người được cầu xin, cả trong những lúc không phù hợp. Sự kiên trì để cầu nguyện luôn luôn, cầu nguyện không biết mệt (x. Lc 18:1), thử thách và tăng cường đức tin như là một mối quan hệ giữa những người bạn hữu, hay thậm chí giữa cha mẹ và con cái. Những cái bánh và Chúa Thánh Thần được nhắc đến rõ ràng trong lời cầu xin cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa Thánh Thể và Thanh Tẩy của tình bạn với Đức Giêsu và mối quan hệ với Cha của Người. “Có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8:26-27).

Sự kiên trì của lời cầu xin người bạn cho ba ổ bánh nhấn mạnh sự hiệp thông chia sẻ để nuôi dưỡng và chăm sóc người người bạn của mình. Lời cầu nguyện nếu chân thực sẽ làm cho mối quan hệ tình bạn của chúng ta với Thiên Chúa được mở ra cho tha nhân và thúc đẩy chúng ta truyền giáo. Chúng ta cầu xin cho các nhu cầu của mình cũng như của những người khác, thông qua Hội Thánh mà chúng ta trở thành nhờ Thần Khí của Chúa Cha và bánh Thánh Thể mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta không bao giờ chỉ cầu xin cho riêng mình; đó không phải là cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện vì nó gia tăng sự hiệp thông của chúng ta với người khác và mở rộng ranh giới đoàn của Đức Giêsu.

Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô nhấn mạnh, “Niềm Vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu” (số 1). Đức Phanxicô viết tiếp, “Chỉ nhờ sự gặp gỡ này—hay sự gặp gỡ mới mẻ này—với tình yêu của Thiên Chúa, được triển nở thành một tình bạn phong phú, chúng ta được giải phóng khỏi sự chật hẹp và khép kín của mình. … Ở đây chúng ta tìm thấy nguồn mạch và cảm hứng cho mọi nỗ lực phúc-âm-hoá của chúng ta” (số 8). Chúng ta là “những người được Đức Kitô mời gọi đi vào tình bạn với Ngài” (số 27). Đức Giáo Hoàng Phanxicô tin rằng “chúng ta được dựng nên để hưởng nhận điều mà Tin Mừng cống hiến cho chúng ta: tình bạn với Đức Giêsu và tình yêu của các anh chị em chúng ta” (số 265). Niềm tin truyền giáo của chúng ta “phải được nâng đỡ bởi trải nghiệm không ngừng được đổi mới của chúng ta về sự nếm cảm tình bạn và sứ điệp của Đức Kitô” (số 266).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên sử dụng một cách mô tả đơn sơ và hữu ích về truyền giáo: “Truyền giáo vừa là một niềm say mê Đức Giêsu, vừa đồng thời là niềm say mê dân của Người” (số 268). Có nghĩa là mỗi người truyền giáo có trải nghiệm sâu xa sự gặp gỡ với Đức Giêsu bằng tình bạn thân thiết thì sẽ muốn chia sẻ cho người khác những kết quả của sự gặp gỡ này. Vì vậy, xuất phát từ sự gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa, chúng ta cũng ước muốn là bạn với những người khác trong việc chia sẻ tình bạn của họ với Đức Giêsu.

NGÀY 11 THÁNG 10, 2019

Thứ Sáu Tuần 27 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Gioan XXIII, giáo hoàng

Ge 1:13-15; 2:1-2

Tv 9:2-3.6; 16:8-9

Lc 11:15-26

Bài đọc Tin Mừng hôm nay dọi ánh sáng vào chủ đề về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và dẫn chúng ta đến hai niềm xác tín này: thứ nhất, không thể đứng trung lập, và thứ hai, không có trạng thái nào là vĩnh viễn trong cuộc đời người môn đệ, ngoại trừ lòng trung thành với Thiên Chúa.

Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa được biểu lộ bằng việc từ chối và chiến thắng sự dữ. Tin Mừng nối kết chủ đề cầu nguyện ở đoạn trên (x. Lc 11:1-13) với hoạt động trừ quỉ của Đức Giêsu. Trong đoạn trên, Đức Giêsu dạy chúng ta cầu xin cho Nước Chúa trị đến; bây giờ Người nói rằng Nước Chúa đã đang đến và một dấu chỉ quan trọng của sự kiện này là việc trừ quỉ. Điều thú vị nhất ở đây là, tiếp theo những câu nhấn mạnh về mối quan hệ của Đức Giêsu với Chúa Cha, bây giờ các địch thủ của Người trình bày bôi bác những lời Người đã nói và tố cáo rằng Người dựa vào thế lực của quỉ Bêendêbun để trừ quỉ (x. Lc 11:15). Nhưng Tin Mừng tiếp tục khẳng định rằng Đức Giêsu, vì kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, Người có khả năng khuất phục và diệt trừ sự dữ trong dân chúng.

Không thể đứng trung lập. Đứng trước niềm hi vọng thực sự diệt trừ và chiến thắng sự dữ, không ai có thể đứng trung lập, vì như Đức Giêsu nói, “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11:23). Do đó, trong quyết tâm làm cho Nước Thiên Chúa hiện diện, chúng ta phải quyết định đứng về phía Đức Giêsu để thu góp với Người; vì một người không làm điều tốt theo cách của Đức Giêsu thì có nghĩa là người ấy đang để mặc cho sự dữ hoành hành. Không có tình trạng nào là vĩnh viễn trong cuộc chiến chống lại sự dữ ngoại trừ chiến thắng phục sinh của Đức Giêsu trên sự chết. Đối với các môn đệ, điều kiện cơ bản để có thể tham gia vào việc xây dựng Nước Chúa là xác tín rằng trong cuộc đời lữ hành ở trần gian, không có tình trạng nào là vĩnh viễn. Để cắt nghĩa khái niệm này, Luca trình bày câu truyện chúng ta gặp ở các câu 24-26. Chẳng hạn, ở đây chúng ta thấy rõ rằng việc làm biến đổi thực tại không chỉ đơn thuần là chúng ta làm một điều gì đó tốt lành, nhưng là làm điều tốt lành một cách bền bỉ, nhất quán; để cho mình ngơi nghỉ là một cách làm cho sự dữ lớn lên. Thực vậy, khi thần ô uế quay trở lại, người ấy trở nên tệ hơn trước, vì họ tin rằng mình đã được giải phóng vĩnh viễn.

Như Đức Giêsu, người môn đệ truyền giáo phải tham gia vào cuộc chiến chống sự dữ. Đây phải là một mối quan tâm chính của chúng ta, vì nó thực sự chứng tỏ tình con thảo của chúng ta với Thiên Chúa và mối hiệp thông của chúng ta với Đức Giêsu. Tuy nhiên, điều lạ là việc làm chứng đòi hỏi các môn đệ đối diện với bản tính nhân loại của chính mình. Một đàng, họ phải ý thức rằng, nhờ ơn Chúa và cố gắng của mình, họ có khả năng tham dự vào sứ mạng của Chúa Giêsu (x. Lc 9:1-6; 10:1-16). Nhưng song song với những tiềm năng to lớn này, người môn đệ cũng phải ý thức về những giới hạn của mình: họ được biểu thị nơi con người ông Phêrô, như là những người tội lỗi (x. Lc 5:8), hay thậm chí như là những người dễ bị tổn thương trước những lời chỉ trích lộng ngôn của các lãnh đạo tôn giáo. Chính việc đứng về phía Đức Giêsu, thuộc về Người, là yếu tố quyết định và nâng đỡ cuộc chiến của chúng ta chống lại mọi hình thức của sự dữ.  

Do đó, chúng ta có thể nói rằng Luca không sợ thực tế. Trong mô tả của ông về các môn đệ, Luca đề cao nhân đức và sự quyết tâm của các môn đệ, nhưng cũng nhấn mạnh những yếu đuối và những thất bại của họ. Tác giả Tin Mừng này, nhưng trên hết là Đức Giêsu, biết rằng sự cao cả của chúng ta hệ tại việc chúng ta nhìn nhận sự giới hạn này, vì mọi môn đệ phải hiểu rằng mình sẽ luôn luôn lớn lên; mình sẽ không bao giờ đạt tới những chiến thắng vĩnh viễn, ít là trong cuộc đời này. Người môn đệ truyền giáo sẽ luôn luôn sống trong trạng thái hành động: hoán cải, dấn thân, học hỏi. Chính khi chúng ta sống trong tình trạng được hoán cải, có quyết tâm, được giáo dục, chúng ta bắt đầu hoàn toàn là chính mình, phấn khởi tự cứu mình.

NGÀY 12 THÁNG 10, 2019

Thứ Bảy Tuần 27 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Ge 4:12-21

Tv 97:1-2.5-6.11-12

Lc 11:27-28

Trong bài đọc Tin Mừng vắn gọn hôm nay, chúng ta nghe thấy từ “phúc.” Nó chỉ về một trạng thái tốt lành tinh thần, trong đó chúng ta trải nghiệm được niềm vui đích thực trong linh hồn, nhưng nó cũng có nghĩa là “được tôn trọng” hay “được kính trọng”. Vậy ai là những người muốn được gọi là có phúc? Câu trả lời của Đức Giêsu là rõ ràng và trực tiếp: “Phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28). Những lời này của Đức Giêsu mở đường cho chúng ta suy tư về ơn gọi truyền giáo của chúng ta. Ý nghĩa sâu hơn của việc lắng nghe lời Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta nhờ một hình ảnh mà một số ngôn sứ Cựu Ước cống hiến cho chúng ta. Ngôn sứ Êdêkien được lệnh: “Hỡi con người, thấy gì, cứ việc ăn! Hãy ăn cuộn sách này … Tôi mở miệng ra, và Người cho tôi ăn cuộn sách ấy” (Ed 3:1-2). Ngôn sứ Giêrêmia nói: “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con” (Gr 15:16).

Nghiêm túc lắng nghe lời Thiên Chúa có nghĩa là “ăn lời ấy”, suy niệm lời ấy, ở trong lời ấy, giữ lời ấy trong lòng mình. Nó cho phép lời ấy ăn rễ sâu trong lòng chúng ta lớn lên trong ý thức của chúng ta, để thách thức các giá trị và các thái độ của chúng ta. Cuộc sống chúng ta và tình yêu của Thiên Chúa đan quyện vào nhau. Điều này đòi hỏi chúng ta liên lỷ phó thác cho Thiên Chúa, một thái độ không phải đơn giản hay tự động. Ăn lời Thiên Chúa theo lời của ngôn sứ là chỉ về việc ăn bàn tiệc Thánh Thể.

Phần thứ hai trong lời cảnh báo của Đức Giêsu tập trung vào việc sống lời của Thiên Chúa.Nó đòi hỏi chung ta một sự dấn thân để đem lời Chúa ra thực hành, tuân giữ các giới luật của lời Thiên Chúa, biến tình yêu Thiên Chúa thành hành động cụ thể, đưa sứ điệp của Thiên Chúa vào đời sống hằng ngày của chúng ta. Mặc dù công việc này mang một chiều kích cá nhân, nó cũng bao hàm một sự dấn thân xã hội mạnh mẽ. Chúng ta có thể lấy nguồn cảm hứng từ lời của Thánh Giacôbê: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18), và chúng ta có thể thêm: và tôi sẽ cho bạn thấy tôi đã nghe lời Thiên Chúa như thế nào.

Trong thời gian gần đây, các Giáo Hoàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp giữa “nghe” lời Thiên Chúa và “đem lời Thiên Chúa ra thực hành”; chúng ta phải là những “người nghe” và đồng thời là những “người làm”. Việc rao giảng Tin Mừng đòi hỏi cả việc chiêm niệm và hành động cụ thể. Chúng ta phải nhớ lại lời thách thức của Đức Phaolô VI trong Evangelii Nuntiandi: “Người thời nay sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn các thầy dạy, và nếu họ nghe các thầy dạy, đó là vì các người này cũng là những chứng nhân” (EN 41).

Đọc kỹ Tân Ước sẽ cho chúng ta thấy rằng người đầu tiên xứng đáng được vinh danh là người “có phúc” không ai khác hơn là chính Đức Maria. Luca khi mô tả cảnh Đức Maria đi thăm bà Êlidabét (1:41-45), đã ghi nhận rằng “bà Êlidabét, được đầy Thánh Thần, đã kêu lớn tiếng rằng “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. … Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Mẹ Maria được chúc phúc vì đã tin. Mẹ tin vào lời Thiên Chúa nói qua miệng sứ thần. Mẹ tin và nói lời thưa fiat vô điều kiện với Thiên Chúa.

Rõ ràng các lời của Đức Giêsu có ý ám chỉ về Đức Trinh Nữ Maria. Các câu 27 và 28 là những câu ám chỉ rõ ràng về Mẹ của Người, như là một gương mẫu không thể tranh cãi về thái độ mà một người môn đệ phải có khi đón nhận Lời (x. Lc 2:16-21), vì chỉ một vài câu trước đó, Tin Mừng Lc nói rằng Đức Maria “giữ kỹ mọi điều ấy, và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). “Giữ kỹ” ở đây là bảo tồn, giữ gìn trong ký ức, và luôn luôn bao hàm sự chú tâm và trách nhiệm. Nhưng Đức Maria, ngoài việc “giữ kỹ” những điều ấy, Người còn suy niệm chúng trong lòng; nghĩa là, Người cố gắng nắm bắt ý nghĩa thực sự của những chuyện đang xảy ra.

Không được hiểu bài Tin Mừng hôm nay như một lời của Đức Giêsu chối bỏ Mẹ của mình; đúng hơn, nó nhấn mạnh rằng việc chú ý lắng nghe Lời của Thiên Chúa với đức tin thì quan trọng hơn một mối quan hệ ruột thịt với Đức Giêsu. Cùng một lời khẳng định như thế được thấy trong các đoạn Tin Mừng khác (x. Mt 12:18; Mc 3:33; và Lc 8:21), trong đó Đức Giêsu hỏi, “Ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi?” Rõ ràng Đức Giêsu muốn chỉ ra tầm quan trọng của việc đón nhận và vâng theo lời của Thiên Chúa.

Một đoạn từ Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II dạy rằng, “Trong thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã đón nhận lời của Con mình, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín. Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng đó” (LG 58).

Đức Maria như một môn đệ trung thành sống cuộc lữ hành đức tin của mình là một hình ảnh khơi dậy sự nhậy cảm của những con người hiện đại và sự hiều biết của Hội Thánh trong ơn gọi làm môn đệ của mình. Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Giáo Hoàng Phanxicô hai lần trích lời của Đức Gioan Phaolô II trong Thông Điệp Redemptor Mater: “Đức Maria là người phụ nữ đầy đức tin, sống và tiến bước trong đức tin, và ‘cuộc lữ hành đức tin phi thường của Mẹ biểu thị một điểm qui chiếu cho Hội Thánh’. Đức Maria để mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong hành trình đức tin hướng tới sứ mạng phục vụ và sinh hoa kết quả. Ngày nay chúng ta hướng về Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu độ cho mọi người và giúp những người mới trở thành môn đệ đến lượt họ cũng trở thành những người loan báo Tin Mừng… ‘Và đây chính là cách mà Đức Maria trong suốt nhiều năm đã sống trong sự thân mật với mầu nhiệm Con của ngài, và tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin của ngài’” (EG 287).

Chúng ta biết rằng một phần cần thiết và thậm chí không thể thiếu của việc chia sẻ Tin Mừng là cung cấp thông tin. Nhưng đó không phải là yếu tố đầu tiên, cũng không phải là yếu tố quan trọng nhất. Chia sẻ Lời không chủ yếu hệ tại việc nói ra, nhưng ở việc làm chứng. Luca trình bày niềm xác tín này một cách nhất quán trong câu truyện kể về việc Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ của ông đến hỏi Đức Giêsu xem Người có phải là Đấng Mêsia không (x. Lc 7:18tt). Thay vì cho một câu trả lời, Đức Giêsu nêu cho họ một bằng chứng không thể chối cãi, bằng cách chỉ ra những hệ quả của việc Nước Thiên Chúa đã đến. Theo sau câu hỏi của hai môn đệ, sách Tin Mừng kể: “Chính giờ ấy, Ðức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy” (Lc 7:21). Niềm vui sâu xa nhất của Tin Mừng Đức Giêsu mang đến không nằm ở bình diện của những gì có thể nói ra trên lý thuyết, nhưng ở những hệ quả hiện sinh của Tin Mừng. Cho nên, cần có những môn đệ muốn mở lòng lắng nghe và quảng đại sống Lời ấy, giống như Đức Trinh Nữ Maria.

NGÀY 13 THÁNG 10, 2019

Chúa Nhật Tuần 28 Mùa Thường Niên

Năm C

2 V 5:14-17

Tv 98:1.2-4

2 Tm 2:8-13

Lc 17:11-19

“Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim.” Chúng ta cảm thấy sốc khi đọc thấy rằng chỉ một người trong mười người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành quay lại để “cám ơn” Người. Biết ơn không chỉ là một bổn phận xã hội mà chúng ta chia sẻ, nhưng còn là một cách diễn tả nội tâm chúng ta để nó cũng trở thành một hành vi thiêng liêng.

Câu truyện của Tin Mừng về việc chữa lành mười người phong cùi có thể đã được mô phỏng theo câu truyện của Cựu Ước về việc ông Naaman được chữa lành. Naaman, tướng chỉ huy quân đội Syria, là một nhân vật cao sang, một cố vấn tin cậy của nhà vua và một chiến binh dũng cảm, nhưng ông bị bệnh phong cùi, căn bệnh đáng sợ nhất trong thế giới cổ đại. Một cô gái Ítraen, tù nhân chiến tranh, đã giúp vị tướng lớn này tìm ra cách chữa bệnh. Cô gái không được nêu tên nói với vợ tướng Naaman rằng ông sẽ được chữa lành nếu đến gặp “vị ngôn sứ tại Samaria” (2 V 5:3). Trước hết, Naaman phải xin phép vua Aram, và vua đã cấp thư giới thiệu ông cho vua Ítraen. Naaman mang theo một ít lễ vật cùng với thư giới thiệu của vua Aram rồi đến gặp vua Ítraen. Nghĩ rằng vua Aram có ý khiêu khích mình, vua Ítraen nổi cơn thịnh nộ xé áo ra. Nghe biết chuyện này, ngôn sứ Êlisa xin vua Ítraen truyền cho Naaman đến với mình: “Bệ hạ cứ cho ông ta đến với thần, để ông ta biết rằng có một ngôn sứ ở Ítraen” (2 V 5:8). Đích thân gặp mặt là điều kiện thiết yếu để vị tướng này được chữa lành. Naaman cùng với một đoàn tuỳ tùng ấn tượng đến gặp ngôn sứ Êlisa. Trên cương vị một ông tướng chỉ huy, Naaman chờ đợi một cuộc chữa bệnh ngoạn mục từ phía ông Êlisa. Nhưng vị ngôn sứ thậm chí không ra gặp Naaman, mà chỉ sai người ra nói cho Naaman biết phải làm gì: đến tắm bảy lần ở sông Giođan (một dấu chỉ tiên tri về phép rửa của chúng ta). Một việc quá đơn giản khiến Naaman không thể tin nổi. Không lẽ ông không cần đích thân gặp vị ngôn sứ? Các con sông ở Đamát lại không tốt hơn các con sông ở đây hay sao? Bài tường thuật gợi ý rằng một phần thì được chữa, còn phần khác thì được lãnh. Chữa là phần thể xác; lành là phần tâm hồn. Naaman tuy tức giận nhưng vẫn làm theo. Khi thấy mình được chữa lành, ông quay lại cám ơn ngôn sứ Êlia và dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn. Đây là lúc mà cuối cùng ông được gặp Êlia diện đối diện. Chữa lành toàn diện, hoán cải thực sự, là kết quả của việc ông vâng lời của vị ngôn sứ, gặp vị ngôn sứ diện đối diện, và cũng là kết quả của nước bí tích của sông Giođan. Đó là một cuộc gặp gỡ dẫn ông tới chỗ nhìn nhận Thiên Chúa của Ítraen.

Trong bài Tin Mừng này, Luca cho chúng ta gặp lại hình ảnh của người ngoại quốc khi chúng ta đi theo Đức Giêsu trong hành trình của Người. Hành trình này có đích đến là Giêrusalem địa lý, nhưng cùng đích hiện sinh là việc Người hiến dâng sự sống Người trên thập giá, dấu chỉ của sự sẵn sàng vô hạn của Con đối với Cha và công trình cứu độ phổ quát của Người. Đức Giêsu hướng tới Giêrusalem, “thành thánh”, nhưng để đến được nơi ấy, Người đi qua các vùng đất mà người Do Thái cho là quá gần với những người ngoại quốc (gọi là “Galilê của Dân Ngoại”) hay thậm chí là ô uế vì là vùng đất cư ngụ của các dân lạc đạo (dân thành Samaria).

Chính trên con đường đầy nguy hiểm này mà Đức Giêsu gặp nhóm người thuộc số những người bị gạt ra bên lề xã hội nhất: người phong cùi (như Naaman người Syria). Phong cùi là một thứ bệnh da liễu bị coi là một sự trừng phạt cho những kẻ tội lỗi (xem Vua Uzziah trong 2 Sbn 26:20). Người ta tin rằng các bệnh nhân cùi không xứng đáng với việc thờ phượng hay sống chung giữa cộng đồng, vì thế các nạn nhân này phải sống cách ly với phần còn lại của xã hội (x. Lv 13:46). Người phong cùi bị loại trừ, bị cưỡng bức đi vào sống tại những nơi hoang vắng, chỉ được sống chung với những người cùi khác, và luôn luôn phải hô to lên mỗi khi họ đến gần các khu dân cư. Họ cũng bị làm nhục vì phải mặc đồ rách rưới và phải trùm kín đầu.

Một nhóm mười người phong cùi đến gặp Đức Giêsu. Họ lớn tiếng kêu xin Người cứu giúp, vì theo luật họ phải đứng từ đàng xa. Họ chỉ có thể sử dụng giọng nói của họ để làm Đức Giêsu chú ý tới: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (Lc 17:13). Khi xưng Đức Giêsu là Thầy, họ nói với Người như các môn đệ thường nói với thầy mình. Đức Giêsu nhìn thấy và chú ý đến họ, yêu cầu họ làm một hành động cụ thể: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Tại Ítraen, các tư tế là những người có thẩm quyền xác nhận một người có bệnh phong cùi hay đã được sạch khỏi phong cùi (x. Lv 13:9-10; 14:2).

Khi đến gặp Đức Giêsu, những người phong cùi đứng ở xa xa. Đó là vì họ phải giữ khoảng cách dựa theo luật thanh sạch (x. Lv 13:45-46). Điều này cũng có thể cho chúng ta thấy rằng những người bệnh tật này―giống như những người dân ngoại, bị coi là “những người ở xa” (Cv 2:39)―bất chấp sự tủi hổ vì hoàn cảnh tật nguyền của mình, sẽ nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa. Đây là một chi tiết để dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng đi bước trước và xoá bỏ những khoảng cách. Các người phong cùi thưa với Đức Giêsu là “Thầy” thay vì “Chúa”, điều này có thể cho thấy rằng đức tin của họ lúc này mới chỉ là sơ khởi. Họ xin Người dủ lòng thương xót và họ vâng lời Người dạy, nhưng họ không nhận ra được ý nghĩa đích thực của việc họ được chữa lành.

Luca nhấn mạnh sự kiện Đức Giêsu “nhìn thấy” mười người phong cùi khi Người đáp lại tiếng kêu xin của họ. Ở những chỗ khác trong Tin Mừng của ông, Luca cũng liên kết “nhìn thấy” với “cứu thoát” (xem, chẳng hạn, Lc 13:12). Trong sự gặp gỡ sơ khởi này, việc chữa lành không xảy ra ngay lập tức, như trong trường hợp của ông Naaman. Trung thành với sách Luật, Đức Giêsu ra lệnh cho các người phong cùi đến trình diện với các tư tế (x. Lc 17:14). Vì vậy, việc chữa lành thường bao gồm việc nghe lời của Đức Giêsu, và như trong trường hợp của Naaman, cũng bao gồm việc tỏ lòng biết ơn người chữa lành mình. Chín người phong cùi kia, mặc dù đã có ý tốt khi vâng lời Đức Giêsu và được đặc ân gặp Người trực tiếp, nhưng họ không thể chấp nhận sự mạo hiểm lớn nhất: quay trở lại với Đức Giêsu. Chỉ có một người quay trở lại, mà lại là một người Samaria, đồng nghĩa với một “kẻ thù”. Nhưng khi “nhận ra” (một số bản dịch là “thấy”) mình đã được chữa lành, anh liền quay trở lại gặp Đức Giêsu (x. Lc 17:15). Theo Luca, “thấy” ở đây có nghĩa là đôi mắt đức tin của người Samaria này đã được mở ra. Bây giờ, đây là vấn đề có một quyết định cá vị đối với đức tin ấy, và nó xảy ra khi người này quyết định “quay trở lại” với Đức Giêsu. Việc người ngoại quốc này hăng hái tôn vinh Thiên Chúa, phục mình xuống chân Thầy để tạ ơn Thầy, chứng tỏ rằng trong cuộc gặp lần thứ hai này của anh với Đức Giêsu, người Samaria này không chỉ đơn thuần bày tỏ lòng biết ơn của mình, mà còn trải nghiệm một sự chữa lành toàn diện và một sự biến đổi bên trong. Thông thường lòng biết ơn được bày tỏ cho Thiên Chúa; đây là lần duy nhất trong Tân Ước mà lòng biết ơn được bày tỏ cho Đức Giêsu. Cuối cùng, người ngoại quốc này, sau khi được biến đổi nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, bây giờ anh sẵn sàng được sai đi cho một sứ mạng: “Đứng dậy và đi đi” (Lc 17:19; cũng xem Lc 10:3).

Việc chữa lành của cả ông Naaman và của mười người phong cùi đều là những câu truyện xoay quanh chủ đề về sự hoán cải bên trong xảy ra nhờ một sự gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ này diễn ra xuất phát từ một khủng hoảng cá nhân, như một căn bệnh nghiêm trọng chẳng hạn, và nó là một sáng kiến của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của đương sự là đi bước tiếp theo bằng các nhìn nhận và đón nhận ý nghĩa của cuộc gặp gỡ này để dẫn đến sự hoán cải.

Sự chữa lành chỉ có thể xảy ra cho những người mà nơi họ có sự đan xen giữa việc chữa trị thể xác và lòng biết ơn; chữa lành thể xác và hoán cải tâm hồn đan xen với nhau. Nước sông Giođan và việc đi trình diện với các tư tế nhấn mạnh tầm quan trọng của hành động bí tích trong công trình cứu độ. Đây không phải là một sự chữa trị thuần tuý có tính chất cá nhân và trừu tượng. Từ tình trạng bị cách ly và bị loại trừ, chúng ta được hoà giải hoàn toàn với chính mình, trong thân xác mình, và với cộng đoàn, vì chúng ta được giao hoà tự thâm tâm với Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô nhờ hành động của Hội Thánh. Giống như ông Naaman và mười người phong cùi, chỉ những ai trải qua kinh nghiệm của sự hiệp thông thanh tẩy và giao hoà này mới có thể được tái hội nhập vào cộng đoàn và được sai đi làm sứ mạng.

Sứ mạng của Hội Thánh đem đến và truyền thông ơn cứu độ của Thiên Chúa bởi vì nó tại tạo những con người từ sự huỷ diệt của tội lỗi, từ sự chia lìa của thần chết. Đón nhận Tin Mừng có nghĩa là đi vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, chấp nhận cái chết tại sinh của Người và chiêm ngắm sự trung thành của Người trong sự sống lại. Được tái sinh trong giếng rửa tội, sông Giođan mới của Hội Thánh, và biết ơn vì sự cứu độ mà chúng ta không đáng được, chúng ta được làm cho trở thành những người truyền giáo trong các trải nghiệm của đời sống: hãy đứng dậy, đi đi, trở về nhà mình. Những người khác có thể được chọn làm những môn đệ truyền giáo tại những vùng đất xa lạ, có thể là thù nghịch và ngoại giáo: Galilê của Dân Ngoại, Samaria của dân lạc đạo, và Syria của lương dân.

NGÀY 14 THÁNG 10, 2019

Thứ Hai Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Callistô I

Rm 1:1-7

Tv 98:1-4

Lc 11:29-32

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tập trung vào sức mạnh của việc rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa được rao giảng chất chứa dồi dào ơn cứu độ; chúng ta phải sẵn sàng tiếp nhận và lắng nghe Lời ấy. Lắng nghe là Tin Mừng, nó nhắc nhớ lời mời gọi của câu Thánh Vịnh: “Ôi, chớ gì hôm nay anh em hãy nghe tiếng Người: đừng cứng lòng nữa” (Tv 95:8).

Trong bài đọc I, Thánh Phaolô tự giới thiệu mình và việc tông đồ của mình cho các tín hữu Rôma, một cộng đoàn không phải do ngài thành lập, nhưng ngài rất yêu thương và ngài muốn xin họ trợ giúp ngài tiến hành dự án rao giảng Tin Mừng cho Tây Ban Nha. Để làm cho mình được người dân ở đó biết nhiều hơn và tạo lập một sự hiểu biết thiêng liêng tốt đẹp với cộng đoàn này mà ngài chưa từng đích thân gặp gỡ, thánh Tông Đồ bắt đầu kể về sứ vụ và ơn gọi của mình. Việc phục vụ của Ngài cho Đức Kitô và việc tông đồ của ngài với dân ngoại được đặt nền trong mầu nhiệm kỳ diệu của ơn tuyển chọn mà nhờ đó Đức Kitô Giêsu cắt cử ngài đi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Việc phục vụ của thánh Phaolô được đặt nền trên Lời Chúa Kitô, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa Kitô, và thông truyền Lời Chúa Kitô. Cuộc đời ngài lấy Đức Kitô làm trung tâm. Các dòng chữ đầu của lá thư mô tả sức năng động của ơn cứu độ của Thiên Chúa, chuyển từ tính chất cá biệt sang tính chất phổ quát: trong Đức Kitô, ơn cứu độ không còn là đặc ân dành riêng cho một hạng người nào, nhưng được dành cho mọi người, cả những người ở xa.

Bài đọc Tin Mừng nói với chúng ta về những người xa lạ và mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Thầy được vây quanh bởi đám đông xô đẩy Người, và Người tố giác thái độ xấu xí làm hạ giá kinh nghiệm đức tin: sự say mê tìm kiếm những dấu lạ. Thề hệ mà Đức Giêsu đang nói với là thế hệ “gian ác” (Lc 11:29) vì nó liên tục đòi những dấu lạ bề ngoài, như thể muốn nhốt chặt Thiên Chúa và ý muốn cứu độ của Người vào trong những khuôn khổ chật hẹp của một mối tương quan ma thuật, tự động, dựa theo tương quan nhân quả, được điều chỉnh và kiểm soát bởi quyền lực của con người.

Đức Giêsu không muốn cho họ một dấu lạ, ngoại trừ dấu lạ ông Giôna. Sách Giôna nằm trong Cựu Ước giữa các sách tiên tri và các sách khôn ngoan. Sách Giôna kể về một ngôn sứ được Thiên Chúa sai đi rao giảng bên ngoài đất Ítraen, ở thành Ninivê, thủ đô của Assyria, là những kẻ thù truyền kiếp của giao ước: những kẻ xa lạ thực sự theo mọi nghĩa của nó và là những kẻ “ở xa” tột cùng. Sứ mạng không được mong đợi này dạy cho ông Giôna về ý muốn cháy bỏng của Thiên Chúa muốn kêu gọi những người ở xa, loan báo sự tha thứ của Người cho những kẻ không tin, cứu rỗi họ nhờ sự ăn năn hoán cải. Là con người chống đối và cứng đầu trước Lời của Thiên Chúa, Giôna trở thành một dấu chỉ hành vi cứu độ của Thiên Chúa cho dân thành Ninivê.

Cũng vậy, Con Người trở thành một dấu chỉ cho thế hệ của Người, dấu chỉ duy nhất đáng tin cậy. Ngay từ lần giảng dạy tại hội đường ở Nadarét (x. Lc 4:25-27), Đức Giêsu đã từng nhắc nhớ rằng Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ Êlia và Êlisa đem ơn chữa lành đến không chỉ cho những người Do Thái mà cho cả những người dân ngoại. Bây giờ Đức Giêsu cho thấy rằng Người đến là để đem ơn cứu độ không chỉ cho dân Ítraen nhưng cho mọi người. Nhờ Con của Người hoá thành nhục thể, Thiên Chúa mở rộng cho toàn thế giới sự tuyển chọn vốn dành riêng cho Ítraen. Với nhân tính của mình làm dấu chỉ hùng hồn, Đức Giêsu, nơi Người Thiên Chúa trở nên một với mọi người, Người kêu gọi chúng ta đến với một sự hoán cải tâm hồn thực sự, một quả tim mới sẵn sàng nghe và chấp nhận cái lôgích của Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi. Đức Giêsu chỉ cho thế hệ của Người, cho đồng bào của Người thấy rằng Nữ Hoàng Shêba, mặc dù là dân ngoại, đã nhìn nhận nơi sự khôn ngoan của vua Salômôn những dấu vết của tình yêu của Thiên Chúa, và những người dân thành Ninivê, vốn là những dân ngoại và những kẻ tội lỗi cứng lòng, khi đối diện với lời sấm về tai hoạ mà ngôn sứ Giôna công bố, đã đón nhận lời mời gọi hối cải.

Mặt khác, Dân của Thiên Chúa chống lại việc Chúa của họ đến, họ sẽ bị xét xử bởi những người ở xa, những người ‘không-phải-Dân”, được đại diện bởi Nữ Hoàng Phương Nam và dân thành Ninivê. Ở đây ta thấy bi kịch của việc Ítraen không chịu nghe, từ chối nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, thời cơ cứu độ thuận lợi, cuộc viếng thăm của Chúa (x. Lc 19:44; Rm 9–11). Sự tuyển chọn đặc biệt dành cho Ítraen và các lời hứa của Thiên Chúa với dân của Người không tạo nên địa vị ưu việt và các đặc quyền cho một mình dân Ítraen. Cái lôgích của Thiên Chúa trong sự tuyển chọn hệ tại tính chất cụ thể của ơn cứu độ trong lịch sử và cũng hệ tại tính đại diện thay thế của tất cả những người, vì nhân tính của họ, họ được chia sẻ cùng một nguồn gốc và một số phận của cuộc tạo dựng.

Trải nghiệm của ngôn sứ Giôna bị chôn trong bụng cá voi là một ám chỉ rõ rệt về cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu; ông biểu thị cho việc Thiên Chúa thực sự mở rộng sứ mạng cứu rỗi ra cho mọi người, được thấy trong Hội Thánh, trong tính phổ quát và bí tích của Hội Thánh. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, dân tuyển chọn và dân ngoại trở thành một dân duy nhất được cứu chuộc (x. Ep 2:11-19) và được hiệp nhất trong phép rửa với cuộc Vượt Qua của Chúa (x. Rm 6). Sự hiện diện của họ trong thế giới tham gia vào sứ mạng của Đức Giêsu là một dấu chỉ hữu hình và hiệu quả của ơn cứu độ diễn ra hôm nay trong lòng những con người, không có sự phân biệt hay từ chối từ phía Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa, bí tích cứu độ phổ quát, trong trạng thái truyền giáo thường xuyên, được gửi đến cho mọi người, kêu gọi mọi người đến với Đức Kitô. Khi chịu bách hại, Hội Thánh sống lại cuộc khổ nạn cứu chuộc của Chúa; khi được đón nhận, Hội Thánh trải nghiệm tính hiệu quả của cuộc Phục Sinh của Người; và trong sự lớn lên của các tín hữu trong phép rửa, Hội Thánh nhìn thấy những hiệu quả dồi dào của lòng thương xót và tha thứ của Chúa, Thầy và Hôn Thê của Hội Thánh, Đức Giêsu Kitô.

NGÀY 15 THÁNG 10, 2019

Thứ Ba Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Têrêsa Giêsu, tiến sĩ Hội Thánh

Rm 1:16-25

Tv 19:2-5

Lc 11:37-41

Trong bài đọc I, sự mất mát mà loài người đã tự chuốc lấy cho mình chống lại ý muốn của Thiên Chúa bây giờ được Thánh Phaolô đọc lại qua một thứ lịch sử của tội lỗi để giúp các tín hữu Rôma hiểu rõ. Được Thiên Chúa dựng nên cho sự thật và sự công chính, con người đã quay sang nếp sống vô đạo và bất công. Trong khi chiêm ngắm thế giới và có khả năng nắm bắt những sự thiện hảo vô hình của Đấng Tạo Hoá qua công trình tạo dựng, loài người mù tối trong các lý luận của mình và đi vào những con đường tối tăm của sự dâm ô, để thân xác sa vào mọi thứ lạc thú cho tới khi chính thân xác của mình trở thành một đồ vật, sa vào thói tôn thờ ngẫu tượng, tôn thờ và phụng sự các tạo vật thay vì phụng thờ Đấng Tạo Hoá. Có vẻ như Thiên Chúa đã cho phép xảy ra những mất mát này để loài người học biết không đặt niềm tin vào chính mình nhưng vào Đấng duy nhất đáng tin cậy. Phaolô đọc lại câu truyện lịch sử tội lỗi này để cho thấy rằng, mặc dù loài người chỉ xứng đáng lãnh nhận cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã chọn yêu thương loài người và vì thế làm chúng ta được trở nên công chính và được cứu rỗi. Người công chính sẽ sống bởi đức tin; loài người thụ tạo không bị Thiên Chúa đưa ra xét xử, nhưng nhận được một tình yêu ban không,một tình yêu mở ra một sự biến đổi vì nó làm cho người tội lỗi trở nên công chính và kẻ hư đốn được cứu chuộc. Tin Mừng này, được đọc và được đón nhận, là một dynamis mới, một sức mạnh giúp mở rộng trái tim, mở trái tim ra cho đức tin, và truyền thông ơn cứu rỗi. Tin Mừng tự loan truyền một cách không thể cưỡng lại. Tin Mừng lan rộng tới tận cùng thế giới, như bằng chứng mà trời ban cho trái đất và cho toàn vũ trụ, vang xa đến mọi không gian và mọi thời gian, như lời thánh vịnh đáp ca nhắc nhớ chúng ta. Ngay cả các tầng trời tràn đầy ơn cứu chuộc này cũng ca tụng vinh quang Thiên Chúa.

Bài đọc Tin Mừng Luca mời gọi chúng ta xem xét một trở ngại cho việc truyền bá lời sống động và đầy sinh lực của Thầy chí thánh: thái độ quá câu nệ vào truyền thống của những người Pharisêu, một thái độ ngăn cản họ nắm bắt được sức mạnh cứu độ phổ quát của sự hiện diện và hành động của Đức Giêsu.

Khi Đức Giêsu đang giảng cho đám đông, một người Pharisêu mời Người đến dùng bữa tại nhà ông. Được mời dùng bữa với ai là một nghĩa cử của sự chấp nhận, yêu quí và tán thành. Giữa hai người ngồi ăn chung với nhau, không thể có bức tường ngăn cách, chỉ có tình thân mật gia đình. Đức Giêsu chấp nhận lời mời của người Pharisêu, giống như Người từng nhận lời mời của người thu thuế, và ngồi vào bàn, nhưng Người khiến cho chủ nhà khó chịu vì Người không rửa tay trước khi ăn theo tục lệ của người Pharisêu. Trên thực tế, mối quan hệ giữa Đức Giêsu với người Pharisêu vẫn luôn luôn rất khó khăn. Trong Lc 7:36-50, một người Pharisêu cảm thấy sốc khi Đức Giêsu để cho một người phụ nữ tội lỗi đụng chạm đến Người, và Người khen cô này vì tình yêu của cô. Trong Lc 14:1-6, Người trách mắng việc giữ luật hình thức của người Pharisêu khi họ giữ luật nhưng lại coi thường các đòi hỏi của bác ái, vốn là tổng hợp và tóm lược của Lề Luật (x. Mt 22:37). Trong Lc 20:45-47, Đức Giêsu cảnh cáo thói giả đạo đức của những người Pharisêu là những kẻ phô trương sự công chính của họ bằng các cử chỉ khô khan và vô nghĩa.

Các truyền thống, thực hành và tập tục, khi bị áp đặt và tuân giữ một cách cứng nhắc, thường vượt lên trên những mục đích thứ yếu và công cụ của chúng để giáo dục những quả tim yếu đuối và dễ bị ấn tượng của chúng ta và khuyến khích chúng ta làm việc thiện và yêu thương. Nhưng chúng có thể trở thành những rào cản tạo ra sự xa cách và chống đối. Chỉ có sự phục hồi của lòng hoán cải để trở về với sự đối thoại yêu thương với Đức Kitô, Đấng không sợ vượt qua những rào cản, những giới luật khô khan và những truyền thống rỗng tuếch, mới có thể sinh ra sự sống và các mối quan hệ hiệp thông mới mẻ, ở đó ngay cả luật pháp và các qui tắc cũng có thể giúp chúng ta sống tốt lành và phù hợp với sự mới mẻ của ơn cứu độ. Từ những việc tuân giữ bề ngoài, chúng ta đi vào chiều sâu của trái tim trong tình yêu với Thiên Chúa, được kết hợp với Đức Kitô, duy trì mối hiệp thông với Người, và mời gọi mọi người đến dự bàn tiệc sự sống và niềm vui này.

NGÀY 16 THÁNG 10, 2019

Thứ Tư Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Hedwig

Lễ Nhớ Thánh Margarita Maria Alacoque

Rm 2:1-11

Tv 62:2-3.6-7.9

Lc 11:42-46

Trong bài đọc I, trích thư gửi cho các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng người Do Thái cũng phạm tội giống như dân ngoại. Thực vậy, ngài vạch ra cho người Do Thái thấy rằng họ quá dễ dàng xét đoán các dân ngoại về nếp sống vô luân, và họ tự phụ là người tốt hơn những người khác vì họ hoàn toàn tuân giữ Lề Luật. Để chứng minh cho các đồng bào Do Thái của mình rằng họ đã lầm đường lạc lối như thế nào, Thánh Tông Đồ cố gắng đánh đổ những xác tín sai lạc của họ mà chính ngài cũng đã từng chia sẻ trước khi ngài được biết Chúa Phục Sinh. Trước đó, Phaolô luôn cậy dựa vào xác thịt và vào tư cách là thành viên của dân đã lãnh nhận Lề Luật. Bây giờ Phaolô được hoán cải về với Đức Kitô nhờ đức tin, cái làm cho người ta trở nên công chính và hoạt động nhờ đức mến, chứ không phải nhờ việc tuân giữ lề luật theo nghi thức. Chỉ tin bằng miệng và thi hành Lề Luật bề ngoài thì không đủ; người ta phải sống trong đức tin. Trên thực tế, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên đức ái, kết quả của việc gắn bó với đức tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại. Đức tin là tham dự vào bản tính Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa của Đức Giêsu.

Phaolô tố giác tội cứng lòng và ngoan cố của một dân tộc tin rằng chỉ có họ đáng được cứu rỗi. Thời kỳ đặc quyền qua rồi; đã đến lúc mỗi người phải có một quyết định về Đức Kitô là ai. Đó là lúc mỗi người phải phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa, khám phá ra rằng Thiên Chúa muốn tuôn đổ lòng từ bi nhân hậu cả trên những ai ở xa Người. Thiên Chúa là thẩm phán duy nhất của loài người; tất cả chúng ta đều chịu sự phán xét của Người, không có ngoại lệ. Niềm tin chắc rằng mình công chính và thái độ kiêu căng nghĩ mình là người duy nhất bảo về sự thật và luân lý (Lề Luật) có thể khiến người ta khinh thường Thiên Chúa, coi lòng thương của Người là sự yếu đuối, và khiến người ta loại trừ những người khác khỏi ơn cứu độ.

Đoạn Tin Mừng hôm nay, một sự tố cáo có tính ngôn sứ chống lại những người Pharisêu và những luật sĩ, là một lời cảnh cáo đối với những cộng đoàn Kitô của quá khứ và hiện tại về các cám dỗ của chủ nghĩa nệ luật, chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nghi thức, chúng nuôi dưỡng kẻ thù lớn của công trình cứu độ của Đức Kitô, một thái độ qui ngã kiêu căng và tự mãn. Tha hoá Lề Luật thành một thái độ hình thức bề ngoài và thu hẹp ơn gọi của dân tuyển chọn vào một đặc quyền loại trừ mà các dân ngoại không bao giờ có thể có, thái độ này gây phương hại tới tính phổ quát của ơn cứu độ và sứ mạng của các môn đệ Đức Giêsu.

Đức Giêsu bắt đầu tố giác những lạm dụng của người Pharisêu liên quan đến việc dâng cúng. Họ có thể tuân giữ các qui luật tối thiểu và phụ thuộc, như nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương và đủ thứ rau cỏ. Đức Giêsu không muốn bác bỏ những việc thực hành này (việc nộp thuế thập phân hằng năm tại đền thờ được qui định bởi Đnl 14:22), nhưng Người đặt nó vào vị trí đúng đắn trong bối cảnh của một mối quan hệ đích thực của lòng tin vào Thiên Chúa và lòng bác ái đối với tha nhân. Dâng của lễ mà không có sự dấn thân trong hành trình hoán cải thì có thể là cái cớ để bỏ qua việc tuân giữ các giới luật cơ bản, như công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa, là những thực tại đòi hỏi một sự biến đổi cõi lòng mình và thế giới một cách dứt khoát và liên tục.

Một lời tố cáo khác của Đức Giêsu liên quan đến khuynh hướng tìm kiếm danh dự, theo đuổi các phần thưởng, chăm lo vẻ bề ngoài của quyền lực, giữ những chỗ ngồi danh dự. Mối quan tâm quá đáng về vẻ bề ngoài này là hậu quả của một sự sa đoạ bên trong khiến người ta trở nên giống như một cái mồ mả, bên ngoài trông đồ sộ sang trọng, nhưng bên trong hoàn toàn thối rữa. Trong khi những cái bên trong thì người khác không thấy được, người ta chăm chút cho những cái bên ngoài vì những mục đích ích kỷ.

Những lời chỉ trích quyết liệt của Đức Giêsu khiến cho không chỉ những người Pharisêu mà cả những luật sĩ cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Đức Giêsu cũng tiếp tục nặng lời quở trách họ về việc họ thích chất lên vai những người khác những gánh nặng của việc tuân giữ lề luật, mà bản thân họ không đụng tới, cho thấy sự bất nhất giữa lời giảng dạy của họ và đời sống của họ. Luật là để phục vụ đời sống, duy trì và thăng tiến đời sống. Đức tin không bao giờ hạ giá con người; trái lại, đức tin khuyến khích mỗi người tăng trưởng viên mãn.

Ở đây chúng ta thấy một quan điểm tông đồ thực sự: đối diện với ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa và sứ mạng của Đức Giêsu và các môn đệ Người, những người Pharisêu và luật sĩ phải xét lại cách suy nghĩ của họ về mối quan hệ với Thiên Chúa và ơn cứu rỗi. Cơ hội để Đức Giêsu có phản ứng chỉ trích gay gắt này là việc ngài vào bàn ăn mà không rửa tay trước theo luật truyền thống.

Chỉ trích gay gắt đầu tiên của cảnh này (Lc 11:39-44), ngay trước khi bài đọc của chúng ta bắt đầu, được nhắm vào một quan niệm sai lạc của người Pharisêu về đời sống và về mối quan hệ với Thiên Chúa. Người Pharisêu ngạc nhiên (Lc 11:38) vì hành vi của Đức Giêsu, và ngay lập tức nhận được câu trả lời cứng rắn của Đức Giêsu (Lc 11:39). Tầm quan trọng mà Lc gán cho cuộc tranh luận này, giọng điệu phê bình của Đức Giêsu, lời Đức Giêsu nói về các ngôn sứ và các tông đồ dựa theo đức khôn ngoan của Thiên Chúa (Lc 11:49), tất cả điều này chứng tỏ sự nghiêm túc của Người. Điều được nhắm tới trong thái độ có vấn đề của những người đối thoại với Đức Giêsu là việc họ giới hạn ơn cứu rỗi vào việc tuân giữ Lề Luật bên ngoài, nó gây nguy hiểm cho sứ mạng phổ quát dựa trên ý muốn cứu độ của Thiên Chúa Giao Ước.

Vấn đề trước hết nảy sinh trên bình diện phân biệt giữa thanh sạch và ô uế, bên trong và cái bên ngoài, các qui luật áp đặt trên người khác nhưng lại không được thực hành bởi những người áp đặt chúng. Điều này làm ta nhớ lại thị kiến của ông Phêrô trước khi gặp viên đại đội trưởng Cornêliô, trong thị kiến ấy Phêrô thẳng thắn thưa với Chúa rằng “những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” (Cv 11:8). Trong đoạn Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời rõ ràng: Mọi sự đều bởi tay Thiên Chúa làm ra, cả cái bên trong lẫn cái bên ngoài, vì thế mọi sự đều thanh sạch (x. Cv 10:15; Mc 7:15). Và Phêrô hiểu rằng, không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch (x. Cv 10:28). Việc tông đồ và truyền giáo là để tỏ lộ sự tốt lành của Thiên Chúa Cha, Đấng tạo dựng mọi sự, Đấng không muốn có những rào cản nghi thức hay sự phân cách bên ngoài nào. Người truyền giáo được kêu gọi sống gần với mọi người (x. Cv 10:46-47), vì Thiên Chúa không thiên tư thiên vị người nào (x. Cv 10:34).

Luca sử dụng một câu nói súc tích để diễn tả việc Thiên Chúa mở rộng ơn cứu độ phổ quát cho mọi người trong Đức Giêsu và sứ mạng của Hội Thánh Người: “Ðồ ngốc! Ðấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người” (Lc 11:40-41). Để nên thanh sạch, hãy thực hành lòng thương xót và sống bác ái. Trong nước Thiên Chúa, yếu tố quyết định các mối quan hệ giữa người với người, khắc phục các rào cản của sự phân biệt và chia cắt, chính là mầu nhiệm lòng nhân từ của Thiên Chúa, Đấng tự kết hợp với mọi người trong Đức Giêsu và ban lòng thương xót cho mọi người. Các môn đệ truyền giáo của Đức Giêsu được kêu gọi trao ban những gì mình có bên trong. Không chỉ bằng những của bố thí vật chất, nhưng trước hết là trao hiến thân mình: cuộc sống và trái tim của mình. Không yêu cầu phải có những hành vi đơn giản bên ngoài, hay thi hành những giới luật theo nghi thức; người môn đệ truyền giáo được đòi hỏi trao hiến toàn thân mình cho Đức Giêsu, linh hồn và thân xác, bên trong và bên ngoài, trái tim và cảm xúc, các mối quan hệ và qui tắc, vì sự cứu rỗi của mọi người trong sứ mạng truyền giáo.

NGÀY 17 THÁNG 10, 2019

Thứ Năm Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Inhaxiô Antiôkia

Rm 3:21-30

Tv 130:1b-6ab

Lc 11:47-54

Phaolô kết thúc đoạn trình bày trong Rm 1:18–3:20 bằng một lời phát biểu ấn tượng: “Do Thái cũng như Hi Lạp … tất cả đều bị tội lỗi thống trị” (Rm 3:9). Nếu đúng là như thế, có vẻ như không ai có thể được cứu rỗi nếu chỉ dựa vào khả năng con người. Nhưng Phaolô tin rằng sự can thiệp của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đã khắc phục tình hình vô vọng này của loài người: “Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện” (Rm 3:21). Như vậy, Phaolô đặt quyền năng cứu độ của Thiên Chúa tương phản với tình trạng nô lệ tội lỗi. Công trình giải thoát mạnh mẽ của Thiên Chúa diễn ra hôm nay, vì sáng kiến tự do của Người đã mặc lấy hình thức lịch sử nơi Đức Kitô Đấng đã chết và sống lại (x. Rm 3:24-25; 4:25). Khi một người gắn bó với sáng kiến ấy của Thiên Chúa, đời sống của họ hoàn toàn thay đổi: họ được giải thoát khỏi quyền lực thống trị của tội lỗi và sự chết (x. Rm 3:24) và sống như một người bạn trung tín của Thiên Chúa và và người thân cận, theo cái lôgích tình liên đới của giao ước, nghĩa là, như những “người công chính” (Rm 3:26).

Ở đây Phaolô trình bày một thần học hoàn toàn đối lập với não trạng của thời đại ngài. Do Thái giáo thời kỳ sau đã giản lược Lề Luật của Thiên Chúa vào sự thống trị tuyệt đối, tách rời Lề Luật khỏi mối quan hệ cấu thành và nguyên thuỷ với lịch sử và giao ước của Thiên Chúa, cho rằng Lề Luật tự nó có giá trị. Kết quả là Lề Luật thay thế sự vâng phục Thiên Chúa với việc tuân giữ các qui định và các điều cấm kỵ một cách chi ly và cứng nhắc. Lối suy nghĩ này dẫn đến sự thổi phồng tính tự mãn của loài người trước số phận cuộc đời của một người. Cứu chuộc dựa vào “các việc làm của Lề Luật”, vốn là đặc trưng của Do Thái giáo thuộc trường phái các rabbi, trên thực tế nó biến loài người trở thành một ông vua tôn giáo chuyên chế, quên mất Thiên Chúa và coi mình là chủ thể của ân sủng. Thái độ bè phái và loại trừ phát sinh từ đó tạo ra một đường ranh phân biệt rõ ràng giữa người Do Thái hiểu biết và tuân giữ Lề Luật, và những người ngoại giáo tất yếu phải hư mất vì không có Lề Luật.

Thánh Tông Đồ trình bày cho chúng ta một sự hiểu biết thần học về công chính hoá, như là một chọn lựa thay thế cho giáo lý Do Thái giáo này của thời ngài. Ngài nại đến đức công chính cứu độ của Thiên Chúa và chỉ ra đức tin như là khả năng cứu chuộc duy nhất có thể có để thoát khỏi sự thống trị của tội và số phận phải chết đời đời. Về thực hành, Phaolô bác bỏ hình ảnh nghiêm khắc của một vị Thiên Chúa không có lòng thương xót; trái lại, ngài bày tỏ khuôn mặt thật của Thiên Chúa, khuôn mặt của một người Cha dùng tình yêu để hành động và can thiệp cho loài người tội lỗi. Đứng trước sáng kiến kỳ diệu này của Thiên Chúa, người Do Thái cũng như dân ngoại đều ở trên cùng một mặt bằng; cả hai đều cần ơn cứu độ như là một món quà và luôn luôn được kêu gọi đến với đức tin bởi vì cả hai đều ở dưới luật của tội. Trong tiến trình hoán cải trở thành phổ quát này, Ítraen được cứu và lấy lại chỗ đứng chính đáng của nó trong sự tuyển chọn của Thiên Chúa (x. Rm 9–11). Ítraen sẽ được cứu cùng với mọi dân tộc trên trái đất này. Sự tuyển chọn Ítraen trở thành một dấu chỉ hiệu quả cho sự khởi đầu của ơn cứu độ cho người Do Thái cùng với các dân ngoại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết:

Từ việc chia sẻ cách nhìn này của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta trong các bài viết của ngài một mô tả về đời sống đức tin. Qua việc chấp nhận hồng ân đức tin, các tín hữu được biến đổi thành một tạo vật mới. Họ nhận được một con người mới, là con cái [Thiên Chúa]; họ trở nên con cái trong Chúa Con. Cụm từ “Abba, Lạy Cha”, là lời rất đặc trưng của kinh nghiệm của Chúa Giêsu, trở thành trung tâm của kinh nghiệm Kitô giáo (x. Rm 8:15). Đời sống trong đức tin, như một đời con thảo, là một sự nhìn nhận hồng ân nguyên thủy và triệt để, là nền tảng của cuộc đời con người, và có thể được tóm tắt trong câu của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrinthô: “Có gì mà anh em đã không nhận được?” (1 Cr 4:7). Đây chính là trung tâm của cuộc tranh luận của Thánh Phaolô với những người Biệt Phái, cuộc thảo luận về ơn cứu độ bằng đức tin hoặc bằng việc làm của Lề Luật. Điều mà Thánh Phaolô bác bỏ là thái độ của những người tự coi mình là công chính trước mặt Thiên Chúa qua trung gian của hành động đúng của mình. Những người như thế, ngay cả khi họ tuân giữ các điều răn và làm những việc lành, tự đặt mình ở trung tâm, mà không nhận ra rằng nguồn gốc của sự tốt lành là Thiên Chúa. Những người làm như thế, muốn thành nguồn gốc của sự công chính riêng của họ, họ nhanh chóng thấy rằng sự công chính này trở nên khô cằn và họ không thể thậm chí giữ được lòng trung thành với Lề Luật. Họ tự khép kín mình và tự cô lập đối với Chúa và với tha nhân, kết quả là cuộc đời của họ trở nên trống rỗng và những công việc của họ trở nên cằn cỗi như một cây sống xa nước. Thánh Augustinô cũng đưa ra bằng ngôn từ ngắn gọn và hiệu quả của ngài: “Ab eo qui fecit te, noli deficere nec ad te”, “Đừng quay lưng lại với Đấng đã dựng nên bạn, ngay cả quay về phía chính mình”. Khi một người nghĩ rằng bằng cách quay lưng lại với Thiên Chúa họ sẽ tìm thấy chinh bản thân họ, cuộc đời người ấy bắt đầu sụp đổ (x. Lc 15:11-24). Khởi đầu của ơn cứu độ là mở lòng ra với một cái gì có trước, với một món quà nguyên thủy là món quà đảm bảo cho cuộc sống và duy trì nó trong đời. Chỉ bằng cách mở lòng của chúng ta ra cho nguồn gốc này và qua việc nhìn nhận nó, con người mới có thể được biến đổi, nhờ để cho ơn cứu độ hoạt động trong mình và làm cho cuộc đời mình sinh hoa trái, đầy những hoa trái tốt. Ơn cứu độ nhờ đức tin có nghĩa là công nhận tính ưu việt của hồng ân của Thiên Chúa. Như Thánh Phaolô đã tóm lược: “Nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin; và đó không phải bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2:8). [Lumen Fidei, số 19. Bản dịch tiếng Việt của UBGLĐT/HĐGMVN.]

Thánh Phaolô đề nghị cho các tín hữu Rôma những chân trời phổ quát của ân sủng của Thiên Chúa, là nền tảng của sứ mạng được Chúa trao cho ngài và thông truyền cho Hội Thánh được sinh ra từ cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu và được sai đến với thế giới bởi Thần Khí của Chúa Phục Sinh.

NGÀY 18 THÁNG 10, 2019

Thứ Sáu Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Kính Thánh Luca, tác giả Tin Mừng

2 Tm 4:10-17b

Tv 145:10-13.17-20

Lc 10:1-9

Vào ngày lễ kính Thánh Luca hôm nay, chúng ta lắng nghe thư của Thánh Phaolô gửi cho người môn đệ thân tín của ngài là Timôthêo, trong thư ngài than phiền rằng ngài chỉ còn một mình Luca đi cùng, ngoài ra chẳng còn ai. Trong bài tường thuật của Luca về các cuộc hành trình của Phaolô trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ở một vài chỗ có sự thay đổi đột ngột trong tường thuật: đó là các chỗ gọi là “các đoạn chúng tôi” trong sách Công Vụ (x. Cv 16:10-17; 20:5-15; 21:1-18; 27:1-28). Cho tới câu 10:16, viết ở ngôi thứ ba, tên của Luca vẫn chưa được nhắc đến. Trong các câu 1 đến 9, người viết kể lại các chuyến hành trình của Phaolô đến Phrygia, Galatia, Mysia, Bithynia và Troas. Nhưng bắt đầu từ câu 10, Luca viết ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Lập tức chúng tôi tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.” Luca lên thuyền cùng với Phaolô, và qua tài kể truyện của ông, ông mời gọi độc giả đi theo chuyến hành trình truyền giáo của các ông.

Luca tiết lộ một chi tiết về bản thân ông ở đầu sách Tin Mừng. Ông viết rằng ông đang trình bày những sự kiện “đã được thực hiện giữa chúng ta” như ông đã lãnh nhận từ “những người đã chứng kiến tận mắt,” những người đã ở với Đức Giêsu từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Người (x. Lc 1:1-2). Trong đoạn mở đầu này, Luca tiết lộ cho các độc giả rằng bản thân ông không phải là một nhân chứng trực tiếp về những điều ông kể lại. Tác giả Tin Mừng này là một thành viên của cộng đoàn Kitô hữu mới được khai sinh nhờ những chứng từ trực tiếp của những người đã tai nghe mắt thấy Đức Giêsu rao giảng và đã chứng kiến việc Người chịu đóng đinh và sống lại.

Mátthêu (10:1), Máccô (6:7), và Luca (9:1), mỗi người đều thuật lại sự kiện Đức Giêsu gọi “Nhóm Mười Hai”, và sau một thời gian dạy dỗ họ, Người sai họ đi loan báo Tin Mừng. Nhưng chỉ một mình Luca thuật lại rằng Đức Giêsu sau đó sai một nhóm môn đệ đông hơn, bảy mươi hai người, mà chúng ta được nghe nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Theo Luca, trong cuộc loan báo Tin Mừng đầu tiên, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có thêm nhiều người rao giảng Tin Mừng khác nữa. Ngay trước khi chọn và sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem rồi (x. Lc 9:51). Người sai bảy mươi hai môn đệ đi trước để chuẩn bị cho Người đến các thành phố khác nhau. Sự kiện này là hình ảnh dự báo trước trải nghiệm cá nhân của Luca khi ông đồng hành với Phaolô trong hành trình truyền giáo.

Việc Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ (hay bảy mươi, theo một số thủ bản khác) vừa báo trước vừa cung cấp một mô hình cho hoạt động truyền giáo của Hội Thánh cho mọi dân tộc. Trong truyền thống Do Thái, các dân tộc trên trái đất được nghe công bố Lề Luật trên núi Sinai gồm bảy mươi dân tộc (x. St 10; Đnl 32:8); vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu được sai đến với mọi dân tộc.

Đoạn Tin Mừng của phụng vụ hôm nay trình bày việc tông đồ như là sự mặc khải về Nước Thiên Chúa và cuộc phán xét đã bắt đầu trên thế giới này. Theo Luca, đó không phải là việc loan báo cho Ítraen sự vĩ đại của Nước Thiên Chúa, nhưng là công bố cho mọi dân tộc rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Tác giả Tin Mừng viết ra vào thời điểm mà “trong mọi dân tộc” đã có những chứng nhân về Chúa Phục Sinh. Đây là thời khắc quyết định trong lịch sử, ở đó mọi người được cống hiến cơ hội trở nên thành phần của Nước Thiên Chúa.

Phương pháp, tính chất và các viễn cảnh của hoạt động truyền giáo được thực hiện bởi bảy mươi hai môn đệ thì tương tự với những gì được thực hiện bởi Nhóm Mười Hai. Các chỉ dẫn của Đức Giêsu mở ra với một sự mô tả về tình hình; tình hình lúa chín đầy đồng được nhắc đến tương phản rõ rệt về tình trạng thợ gặt thì ít. Vì thế Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” “Cầu nguyện là linh hồn của việc truyền giáo,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết cho Hồng Y Filoni ngày 22 tháng 10, 2017. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là chủ mùa gặt; Người kêu gọi và sai đi. Đó là một lời mời gọi tham gia vào lời cầu nguyện và cuộc ra đi của Đức Giêsu về với Cha, được diễn tả trong việc Người nộp mình vào tay người ta: “Này Thầy sai anh em đi như chiên giữa bày sói.” Các người thừa sai không bao giờ được ỷ vào sức riêng, quyền lực hay bạo lực. Họ chỉ được phong phú trong đức tin và lời cầu nguyện để giữ họ trong mối quan hệ tình yêu với Đức Giêsu, Người Thầy sai họ đi.

Sự nghèo khó lúc ban đầu trở thành nền tảng và dấu chỉ sự tự do và tự hiến  hoàn toàn của họ cho nhiệm vụ duy nhất giải phóng họ khỏi mọi sự cản trở hay trì hoãn. Tất cả điều này được xác định rõ trong một loạt nguyên tắc: không vướng mắc cản trở gì, những người được sai đi đều nhắm thẳng mục tiêu, không dừng lại, ngay cả để chào hỏi, là điều mà theo tập tục của Phương Đông, đòi hỏi khá nhiều thời gian (x. 2 V 4:29). Trái lại, việc chào hỏi được dành cho những người mà sứ mạng được nhắm tới. Việc chào hỏi này không chỉ là một lời tiên tri hay công bố, nhưng là một lời nói hiệu quả đem lại niềm vui và hạnh phúc. Tóm lại, đó là sự “bình an” của thời đại Mêsia, kèm theo ơn cứu rỗi (x. Lc 10:5-6). Những người được sai đi, giống như Chúa Giêsu, thiết lập với những người tiếp nhận họ các mối quan hệ mà trong đó cuộc sống bình an trong Nước Trời đã bắt đầu. Hành vi ứng xử của họ dẫn họ tới chỗ lệ thuộc vào những người tiếp nhận họ, họ giao phó bản thân mình và chính cuộc đời mình cho những người này. Vì thế các người thừa sai hoàn toàn dấn mình, thậm chí cả sự mưu sinh của mình, vào những nguy cơ của sứ mạng: được tiếp nhận hay bị từ chối, thành công hay thất bại. “Nhà” và “thành” biểu trưng cho đời sống riêng tư và đời sống công cộng. Những người được sai đi lệ thuộc vào sự hiếu khách của những người đón nhận sứ điệp, nhưng không gì có thể làm họ dừng lại hay cản trở họ thi hành sứ mang; họ là những người truyền giáo mang đến lời kêu gọi khẩn cấp cuối cùng về khả năng cứu rỗi, lời kêu gọi ấy phải đến được tai của mọi người, đến được trái tim của mọi người, bằng bất cứ giá nào.

NGÀY 19 THÁNG 10, 2019

Thứ Bảy Tuần 28 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ các Thánh Gioan Brébeuf và Isaac Jogues, linh mục, và Các Bạn, tử đạo

Lễ Nhớ Thánh Phaolô Thánh Giá, linh mục

Rm 4:13.16-18

Tv 105:6-9.42-43

Lc 12:8-12

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dự báo trước những bối cảnh khác nhau mà các tông đồ sẽ gặp khi làm chứng cho Người, gồm cả khả năng họ sẽ gặp phải những phản ứng thù nghịch. Ra trước các hội đồng Do Thái và trước các nhà cầm quyền, họ sẽ làm chứng đức tin của họ trước các môi trường tôn giáo và dân sự. Các lời của Người được ứng nghiệm trong sách Công Vụ Tông Đồ khi Phaolô giảng trong hội đường ở Salamis (x. Cv 13:4-17) và khi ngài làm chứng cho Đức Giêsu trước nhà cầm quyền Rôma (x. Cv 21:33–22:29). Đức Giêsu bảo đảm cho những ai theo Người rằng lời chứng của họ ở trần gian sẽ đạt thấu trời; cũng như họ nhìn nhận Con Người trước mặt các cộng đồng tôn giáo hay dân sự ở dưới đất này thế nào, thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa như vậy.

Ngay trước đó, Đức Giêsu đã từng khích lệ các môn đệ hãy dũng cảm và tin tưởng vào những thời kỳ bị bách hại. Như có thể suy ra từ phần còn lại của bài giảng truyền giáo, Người không hứa cho họ sự thảnh thơi hay không bị đánh đạp và chối bỏ, nhưng Người cho họ thấy gốc rễ thật sự của tự do: chiến thắng sự sợ hãi bắt nguồn từ chiến thắng của Đức Giêsu trên sự chết. Đối với Đức Giêsu và các môn đệ của Người, Phục Sinh sẽ là trải nghiệm cuộc chiến thắng này.

Những thời điểm trong lịch sử, khi các môn đệ được kêu gọi công khai nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Mêsia, đó là thời điểm công bố cuộc phán xét cuối cùng trước mặt Thiên Chúa, khi chính Đức Giêsu, là Con Người, sẽ đứng lên làm vị luật sư bào chữa. Trong hình ảnh của tiến trình tố tụng (x. Is 50:8-9); Rm 8:33), chúng ta hình dung ra Chúa Phục Sinh, Đấng đang ở với Thiên Chúa, nhưng cũng đang hiện diện thực sự trong Hội Thánh nhờ Thần Khí của Người, trong cuộc đấu tranh với các lãnh đạo và các thế lực của thế gian này mà các môn đệ vẫn tiếp tục phải đối diện (x. Lc 11:11-12).

Lời phát biểu của Đức Giêsu rằng tôi phạm đến Chúa Thánh Thần thì không bao giờ được tha thứ khiến chúng ta khá ngạc nhiên, nếu nghĩ về dụ ngôn người con hoang đàng (sẽ được kể sau đó ba chương trong Lc), nhấn mạnh việc tha tội. Nhưng chúng ta phải hiểu lời dạy này trong bối cảnh cụ thể của khái niệm Luca về sứ mạng Kitô giáo. Những người đi theo Con Người sẽ chối bỏ Người, như chúng ta thấy ngay cả ông Phêrô, tông đồ thứ nhất giữa các tông đồ, đã chối bỏ Đức Giêsu khi Người bị bắt. Phêrô đã không nhìn nhận Đức Giêsu và không trung thành với Người vì ông chưa chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, và cũng chưa nhận lãnh Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần. Nhưng ông Phêrô đã được tha thứ với lời chào của Chúa Phục Sinh, “Bình an cho anh em” (Lc 24:36), và bằng tình yêu (x. Ga 21:15-19). Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, trải nghiệm Tin Mừng được hoàn tất và ông Phêrô được đổi mới và được tràn đầy quyền năng của Chúa Kitô Phục Sinh, được chắc chắn về ơn đức tin. Lời tuyên xưng Kitô học của ông là kết quả của Thánh Thần trong ông (x. Mt 16:18).

Đương nhiên Luca rất ý thức về các trải nghiệm của Hội Thánh sơ thời trong sách Công Vụ―việc can đảm làm chứng của các tông đồ (x. Cv 4:5tt.; 5:32), nhưng cũng ý thức về sự dấn thân của các cộng đoàn Kitô hữu trước nguy cơ bỏ đạo hay yếu đức tin khi phải đối diện với những mối đe doạ và đàn áp từ bên ngoài. Sau đó ông nhắc nhớ lại một câu nói của Đức Giêsu khiến các tín hữu phải suy nghĩ, làm cho họ ý thức hơn và mạnh mẽ hơn: một lời chống lại Con Người sẽ có thể được tha thứ, nhưng tội phạm đến Chúa Thánh Thần thì không thể được tha. Ai từ chối Con Người trong sứ vụ của Người ở trần gian này thì sẽ được tha và sẽ được một cơ hội mới nhờ ơn Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuấn; do đó họ sẽ có thể nhận được ơn hoán cải và ơn tha tội. Đó là trường hợp của Phaolô và của nhiều người Do Thái đã hoán cải. Nhưng làm thế nào một người có thể có thể được tha tội nếu họ từ khước Thánh Thần―Đấng là nguồn gốc và tác nhân của ơn tha thứ, sám hối và đổi mới của các môn đệ? Luca thấy điều này được khẳng định trong kinh nghiệm về sự cứng đầu và mù quáng của những người đã chối bỏ các chứng từ của các tông đồ (x. Cv 28:25-28). Đây là một hành vi hoàn toàn ý thức và tự do đóng chặt cửa trước hành động của Thánh Thần và chuyển động hoà giải và tha thứ của Thánh Thần, đến mức không người nào có thể được cứu rỗi ngược với ý muốn và hành động của họ. Việc đón nhận hay từ khước Chúa Thánh Thần là một mối quan hệ mầu nhiệm của lương tâm và tự do của chúng ta với Thiên Chúa; chỉ một mình Thiên Chúa thấu suốt lòng chúng ta. Chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng biết rõ lòng chúng ta, có thể ban cho chúng ta ơn tha tội và ơn cứu độ.

NGÀY 20 THÁNG 10, 2019

Chúa Nhật Tuần 29 Mùa Thường Niên - Năm C

Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo

Xh 17:8-13

Tv 121:1-8

2 Tm 3:14–4:2

Lc 18:1-8

Sứ điệp của ĐTC Phanxicô

cho Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2019

ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI:

HỘI THÁNH CHÚA KITÔ THI HÀNH SỨ MẠNG TRONG THẾ GIỚI

Vì rơi vào ngày Chúa Nhật mừng lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, bài đọc I hôm nay với bài tường thuật về trận chiến giữa quân Amaléch và Ítraen có thể gây bối rối cho những ai muốn nói về tầm quan trọng của ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu. Bài đọc có thể bị hiểu sai như là kích động thánh chiến hay kêu gọi việc chiêu dụ cực đoan. Trái lại, truyền giáo nhắm tới việc công bố cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu và sự hoà giải với Thiên Chúa được Đức Giêsu cống hiến. Mục đích của truyền giáo là làm chứng cho Đức Giêsu, thông truyền Tin Mừng của Người, xây dựng Hội Thánh của Người, trong một bầu khí huynh đệ chân thành và tôn trọng tự do đích thực trong việc cùng nhau tìm kiếm sự gia tăng hiệp thông và công bằng trên thế giới. Chưa kể đến việc Tin Mừng cũng dạy chúng ta, qua gương sáng của Đức Giêsu, là phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại chúng ta. Những người được rửa tội và được sai đi không có một sản phẩm để bán hay áp đặt cho thế giới. Là Hội Thánh của Đức Kitô trong sứ mạng truyền giáo, người tín hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa để công bố, làm chứng và thông truyền sự sống ấy cho sự cứu rỗi của bản thân mình và của mọi người khác.

Bản văn Kinh Thánh của sách Xuất Hành 17:8-13 cho chúng ta ký ức về một giai đoạn trong đó Ítraen, một dân lánh nạn đang đi tìm một mảnh đất để định cư, bị đe doạ diệt vong và phải dấn mình vào một cuộc đấu tranh cho sự tồn vong của mình. Chỉ cậy dựa vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, với niềm tin chắc chắn giành chiến thắng cũng như được giải phóng khỏi đất Ai Cập, dân tộc Ítraen lưu giữ ký ức về trận chiến này, và về các trận triến khác sau đó, làm bằng chứng cho lòng tin của họ vào vị Thiên Chúa thật, là Chúa trời đất, Thiên Chúa các đạo binh, Đấng an ủi kẻ yếu đuối và giải phóng những người bị áp bức. Đây là lời ca tụng mà thánh vịnh gia, với lòng tin cậy và biết ơn, dâng lên cho Đức Chúa, Đấng bảo vệ Ítraen:

Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, 
ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?

Ơn phù hộ tôi đến từ ÐỨC CHÚA 
là Ðấng dựng nên cả đất trời. (Tv 121:1-2)

Các yếu tố gây hấn, oán ghét và hận thù đi kèm theo cách diễn giải này của Cựu Ước về đức tin trong lịch sử cần phải được thanh tẩy dần dần qua các thế kỷ bởi dân thánh, như các ngôn sứ và các bậc khôn ngoan, và cuối cùng bởi Chúa Giêsu, Hoàng tử Hoà Bình và Công Lý, Đấng đã được các ngôn sứ nhìn thấy trước và chờ đợi hàng thế kỷ. Những gì từng được hiểu như là sức mạnh và bạo lực trong việc tiêu diệt các ngẫu tượng và các dân ngoại, thì nay trong Đức Giêsu, nó trở thành một niềm đam mê nóng bỏng và một tình yêu thương bừng cháy đối với việc cứu rỗi mọi người.

Thập giá Chúa Giêsu là nơi mà sự ác đã bị đánh bại bởi tình yêu của Đấng chết vì chúng ta, chết thay cho chúng ta, trải nghiệm cái chết của chúng ta như là của chính Người. Người cũng chịu chết để cứu độ những kẻ bách hại và những kẻ thù của Người. Mọi sự oán thù bị tiêu diệt bởi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, nơi Người và trong sự hiệp thông Ba Ngôi, sự oán thù và sự chết càng khơi dậy tình yêu lớn hơn và lòng thương xót hiệu quả hơn. Thiên Chúa đã huỷ diệt tội lỗi, sự bất công và sự chết của chúng ta bằng cách mang lấy tất cả những điều ấy nơi chính bản thân Người, và đã tiêu diệt chúng nhờ tình thương vô biên của Người. “Cái chết của Đức Kitô trên Thập Giá là đỉnh điểm của việc Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình, trong đó Thiên Chúa tự hiến chính mình để nâng con người lên và cứu độ họ. Đó là tình yêu trong hình thái triệt để nhất. Trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, sự giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết đã được thực hiện” (ĐGH Bênêđíctô XVI, Sacramentum Caritatis, số 9). Tân Ước và toàn bộ Sách Thánh giới thiệu cho chúng ta và dạy dỗ chúng ta về hành động cứu độ này của Thiên Chúa trong thế giới.

Trong viễn tượng này, bài đọc 2 cho chúng ta thấy Thánh Phaolô dạy cho Timôthêô biết tầm quan trọng của Sách Thánh như thế nào: “từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Ðức Kitô Giêsu” (2 Tm 3:15). Trên thực tế, Timôthêô đã học Sách Thánh từ thời thơ ấu, giống như mọi bé trai Do Thái; kể từ đó, các trẻ em Kitô hữu cũng học Sách Thánh, với sự trợ giúp của cha mẹ các em và cộng đoàn. Timôthêô ở tuổi thanh niên đã cùng với cả gia đình mình đón nhận đức tin trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Tông Đồ Phaolô và sau này trở thành một thành viên trong đoàn truyền giáo của Phaolô. Là con của một người mẹ Do Thái và người cha Hi Lạp, Timôthêô đã lãnh nhận từ thời niên thiếu một nền giáo dục tôn giáo sâu xa và vững chắc từ bà ngoại anh là cụ Lôít và mẹ anh là bà Êunikê, hai người phụ nữ đã dạy anh hiểu biết Sách Thánh. Đây là điều cần thiết, vì Sách Thánh được Thiên Chúa linh hứng, và nếu được cắt nghĩa tốt (thay vì bị sửa đổi và xuyên tạc, như Thư 2 của Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta; x. 2 Pr 1:19-21), Sách Thánh khích lệ chúng ta làm việc lành và xây dựng chúng ta trong sự công chính và thánh thiện. Nhiệt tình truyền giáo chân chính không phải là thái độ chiêu dụ bằng bạo lực, nhưng là ước muốn một trái tim huynh đệ đầy tràn Đức Kitô và được Thánh Thần thúc đẩy để hợp tác vì sự cứu rỗi và hạnh phúc của mọi người, mọi nhóm sắc tộc, bằng cách chia sẻ những giá trị đạo đức và văn hoá, những niềm vui và hi vọng, tìm kiếm một sự sống viên mãn và bình an đích thực, là chính Đức Giêsu Kitô đã chết và phục sinh. Vì lý do này, Thánh Phaolô mạnh mẽ khuyên nhủ Timôthêô hiến toàn thân xác và linh hồn cho việc giảng dạy Lời Chúa, trong khi đợi chờ ngày Quang Lâm của Chúa.

Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô thường xuyên nhắc đến sự phục vụ của Timôthêô cho công việc rao giảng Tin Mừng. Là người luôn sẵn sàng và chăm chú, anh quảng đại và yêu mến đồng hành với các cộng đoàn Hội Thánh. Phaolô nhắc các tín hữu Philípphê nhớ đến chứng tá và lòng trung thành của Timôthêô: “Nhờ Chúa Giêsu, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Timôthê đến với anh em… Anh em biết: anh Timôthê đã chứng tỏ mình là người có giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha” (Pl 2:19.22). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô nhấn mạnh lòng can đảm và đặc sủng truyền giáo của Timôthêô: “Và chúng tôi đã phái anh Timôthê, người anh em của chúng tôi và cộng sự viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Ðức Kitô; anh đến để làm cho anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, khiến không ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy” (1 Th 3:2-3). Do đó, Timôthêô sẵn sàng đi và cần mẫn phục vụ các giáo hội mới lập, làm sáng tỏ những mối hoài nghi của họ và nâng đỡ các cố gắng của họ. Lời Thiên Chúa là sức mạnh và là bạn đồng hành của anh.

Câu đáp ca Allêluia, với giọng trữ tình và lời lẽ trau chuốt, là một thánh thi tuyệt vời ca tụng Lời của Thiên Chúa, được mô tả là “sống động và hiệu quả”, vì nó thấm sâu vào lòng chúng ta như một thanh gươm hai lưỡi. Như lời thánh vịnh gia, Chúa dò thấu lòng trí chúng ta và thấy rõ mọi đường đi nước bước của chúng ta. Cũng vậy, chúng ta thấy ẩn dụ thanh gươm trong thư Êphêsô; được gọi là gươm của Thần Khí, Lời Thiên Chúa đầy sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn (x. Ep 6:17). Một vũ khí ác liệt của chiến tranh cũng được dùng làm biểu tượng cho một cuộc chiến đấu khác, đó là cuộc chiến đấu thiêng liêng tạo nên sự sám hối và hoán cải, niềm vui và sự sống mới, lòng nhân hậu và trung thành. Đây là những hoa quả của Lời Thiên Chúa sống động và thân thiết, hoa quả của Đức Khôn Ngoan thấu suốt mọi sự, thấm nhuần mọi sự và phán xét mọi sự, hiện diện trong tâm khảm chúng ta và chiếu sáng chói loà khiến không ai có thể bị che khuất. Tin Mừng Đức Giêsu, sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là thần khí và sự sống. Tin Mừng này làm cho kẻ chết sống lại, phục hồi nhân phẩm cho những người bị loại trừ, ban niềm vui cho người sầu khổ, đổi mới mọi tạo vật, biến đổi, thánh hoá và ban sự sống đời đời. Tuy nhiên, khi Lời soi sáng, Lời cũng đồng thời xét xử, vì Lời gỡ bỏ các mặt nạ của linh hồn, tiết lộ sự thật được bày ra trong lương tâm. Trong trái tim của người được Thần Khí của Chúa Phục Sinh đổ vào, sự phán xét của Lời luôn luôn là để ban ơn tha thứ và thanh tẩy.

Dụ ngôn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay mô tả cảnh một bà goá bị một quan toà tham ô từ chối quyền được tự biện hộ, một trải nghiệm mà nhiều người trên thế giới phải chịu ngày nay. Câu truyện dụ ngôn được đặt trong khung cảnh “trong một thành kia” (Lc 18:2), một thành không có tên vì những điều được kể có vẻ xảy ra ở khắp nơi―luật pháp phải được thi hành cho những kẻ thù của quan toà; còn đối với các bạn bè của quan toà, chỉ cần diễn giải.

Người đàn bà goá trong dụ ngôn không phải là bạn của quan toà, vì thế chị không được quan toà lắng nghe. Bà goá này chồng đã chết, và trong xã hội Palestin ở thế kỷ 1, bà không được quyền thừa kế gia sản của người chồng quá cố. Các bà goá dễ bị tổn thương về kinh tế và dễ bị bóc lột, như Đức Giêsu đã nặng lời nhắc nhở chúng ta khi Người tố cáo các kinh sư xâu xé tài sản của các bà goá (Lc 20:46-47). Vì không có luật sư, bà goá phải tự biện hộ chống lại đối thủ của bà. Đức Giêsu phơi bày lập luận trong lòng ông quan toà bất lương, người không quan tâm tới các lời phàn nàn của bà goá và không thèm biết bà là ai. Ông ta không kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng đoái hoài gì tới lợi ích của người dân. Người đàn bà goá nhất quyết không để mình bị làm ngơ, kể cả trước một ông quan toà bất lương, cho tới khi án kiện của bà được giải quyết có lợi cho bà.

Đức Giêsu dùng các dụ ngôn để dạy chúng ta về nhu cầu phải cấp bách và liên tục cầu nguyện. Nếu kinh nguyện là trái tim của sứ mạng Hội Thánh, đó là vì trong mối quan hệ của cá nhân và của Hội Thánh với với Thiên Chúa (phụng vụ), những con người và những cộng đoàn được đổi mới nhờ ơn cứu độ Đức Giêsu ban cho chúng ta. Câu hỏi của người về đức tin khi Người sẽ đến lại có vẻ như chỉ ra một mối quan tâm của Người về hiệu quả của sứ mạng sẽ được thi hành và tính chân thực của chứng tá của các môn đệ truyền giáo. Những môn đệ này, được tháp nhập vào Mầu Nhiệm Vượt Qua nhờ phép rửa, được sai vào thế giới rong tư cách Hội Thánh của Đức Kitô, cộng đoàn của những người được cứu chuộc, là hạt giống và khởi đầu của Nước Trời hầu cho toàn thể lịch sử và toàn thể nhân loại có thể được biến đổi và cứu chuộc. Hiệu quả của việc cầu nguyện liên tục, của sự liên lỉ van xin, của việc bền tâm tìm kiếm lòng yêu mến sự thật và công lý, giúp tôi luyện khả năng truyền giáo của người môn đệ. Chỉ những ai kiên tâm cầu nguyện mới đặt Đức Kitô vào tâm điểm đời sống của họ và của sứ mạng được trao cho họ, giúp tăng cường đức tin. Chỉ những ai kiên trì cầu nguyện mới trở nên chăm chú và có khả năng lắng nghe, thể hiện và khám phá ra những nhu cầu và những đòi hỏi của sự cứu rỗi vật chất và thiêng liêng luôn hiện diện trong con tim của loài người hôm nay.

NGÀY 21 THÁNG 10, 2019

Thứ Hai Tuần 29 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 4:20-25

Lc 1:69-75

Lc 12:13-21

Sợi chỉ chung xuyên suốt các bài đọc Sách Thánh hôm nay là chủ đề lớn về sự sống. Với ông Ápbraham―ở buổi xế chiều của hành trình cuộc đời ông ở trần gian này, theo câu truyện của sách Sáng Thế, trong tình cảnh không còn hi vọng được thấy lời hứa về dòng dõi được thể hiện―Thiên Chúa xác nhận với ông rằng các rào cản sinh học không thể nào ngăn trở kế hoạch thần linh của Người. Ông Ápbraham và bà Sara, cặp vợ chồng già khắc khoải vì nỗi buồn không có con, giờ đây sinh ra Isaac, cái tên có nghĩa là tiếng cười, niềm vui của cuộc đời. Những tín hữu nào kiên cường trong đức tin “ngược với mọi hi vọng” thì được bảo đảm lãnh nhận cùng một món quà sự sống và niềm vui như ông Ápbraham.

Thánh Phaolô Tông Đồ, khi muốn bênh vực giáo lý công chính hoá nhờ đức tin bằng các luận cứ Kinh Thánh, đã nêu lên câu truyện giao ước giữa Thiên Chúa với ông Ápbraham, giao ước mà Thiên Chúa là người khởi xướng và cam kết trung thành. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông như sao trời và như cát biển, và mặc dù vợ ông đã già và không thể sinh con, ông Ápbraham vẫn hoàn toàn tin vào lời Chúa hứa. Và Thánh Phaolô cắt nghĩa rằng chính vì điều này mà ông Ápbraham đã được kể là người công chính. Theo nhận định của Thánh Phaolô, việc cắt bì, giao ước và Lề Luật, cả ba điều này đều đến sau. Rốt cuộc, lòng tin vào Thiên Chúa và vào Lời của Người giữ vị trí tối thượng và đem lại cho chúng ta ơn của lời hứa một cách nhưng không, chỉ nhờ vào lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm của ông Ápbraham là yếu tố quan trọng, vì rõ ràng nó cho thấy sự cho không của Thiên Chúa bắt nguồn từ sáng kiến tự do của Người để biểu lộ lòng thương xót, hoàn toàn không dựa vào công trạng của những người nhận ân sủng của Thiên Chúa. Trên thực tế, câu truyện ông Ápbraham mở đầu đơn giản bằng những lời này: “ÐỨC CHÚA phán với ông Ápram: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi’” (St 12:1-2). Câu truyện không hề nhắc tới một hành động tốt lành nào của ông Ápbraham để gợi ý rằng trước đó ông từng có công trạng gì. Dân Ítraen không thiếu những lời cảnh báo của các ngôn sứ để họ biết lấy đức tin mà chấp nhận sự độ lượng của Thiên Chúa, không phải như một phần thưởng họ đáng được, nhưng như là món quà Thiên Chúa ban không cho họ do lòng nhân hậu của Người. Tất cả chúng ta phải nhìn nhận rằng những điều tốt lành xảy ra cho chúng ta trong cuộc đời hoàn toàn là một món quà ban không của Thiên Chúa: điều này phải khích lệ chúng ta đáp lại Thiên Chúa với cùng một lòng quảng đại và yêu mến, biến các hành động của chúng ta nên giống hành động của Thiên Chúa. Còn về những điều xấu chúng ta gặp phải, câu truyện ông Ápbraham cho chúng ta thấy rằng chúng có các nguyên nhân khác: sai lầm của con người, những lời dối trá, tham lam, chiến tranh, hay các tai hoạ tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn can thiệp để biến đổi những điều xấu này thành điều lành cho các thụ tạo yêu mến của Người.

Cùng một chủ đề sự sống này là tâm điểm của bài đọc Tin Mừng. Bối cảnh ở đây là một cuộc tranh giành giữa hai anh em về chuyện thừa kế gia sản―một tình huống cũng xưa như loài người, từng được xác nhận trong tường thuật của sách Sáng Thế về vụ sát nhân đầu tiên, một tội anh giết em vì người anh Cain không bằng lòng với việc là con cả và được kế nghiệp cha; anh ta còn ghen tị vì Thiên Chúa yêu Aben hơn. Động năng của sự xung đột gia đình giữa các anh em với nhau đã được minh hoạ một cách tài tình, với tất cả sự trần trụi của nó, trong dụ ngôn người cha nhân từ ở Lc 15:11-32. Trong cả hai câu truyện này, con sâu gậm nhấm tình anh em là lòng tham, muốn vơ hết mọi sự cho riêng mình. Ở đây Đức Giêsu cho một lời khuyên cơ bản, một hướng dẫn hữu ích cho đời sống mọi người: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12:15). “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Sự ngu ngốc bị Đức Giêsu chê trách trong bài Tin Mừng hôm nay chính là ở điều này: quên rằng cuộc sống, trong mọi khía cạnh của nó, là một quà tặng. Nó là một ơn phải được chia sẻ, chứ không phải bòn mót vì những lợi lộc nó mang lại. Các hoa quả của trái đất là một phúc lành của Thiên Chúa (x. Đnl 28:1-14), nhưng chúng có thể được biến đổi thành điều ngược lại, khi người ta đòi chiếm hữu và kiểm soát chúng. Ham muốn tích luỹ của cải làm mờ mắt con người, đó là lý do tại sao Đức Giêsu gọi người phú hộ trong dụ ngôn này là “đồ ngốc”. Nó làm chúng ta quên rằng cái chết đang đợi ngay ở bên kia chân trời. Nhưng Sách Thánh cảnh báo chúng ta:

Ðứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở,

thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi: làn gió thoảng,
ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng. (Tv 39:6-7)

Người phú hộ là kẻ ngốc vì sống mà hoàn toàn quên rằng sự sống là một món quà mà người ta có thể mất bất cứ lúc nào (x. Kn 15:8). Người ta không thể sống mà lúc nào cũng lo nghĩ tới cái chết, nhưng cũng đúng là những ai tự nhốt mình trong cái lồng của tính ích kỷ thì sống mà cũng được coi như là đã chết rồi!

“Tôi phải làm gì?” là một câu hỏi được lặp lại nhiều lần trong các sách của Luca (x. Lc 3:10.12.14; 16:3-4; Cv 2:37; 16:30). Chọn lựa giữa sống và chết là ngã rẽ đường mà mỗi người phải đối diện. Đối với Ítraen, và cả đối với ông Ađam trước Ítraen, món quà sự sống (với giá trị cao nhất của nó) ràng buộc chặt chẽ với việc vâng lời Thiên Chúa. Khi loài người chọn thụ hưởng vật chất dẫn đến loại trừ Thiên Chúa, chúng ta tự kết án chính mình vào cảnh chạy trốn, lưu đày và cuối cùng là khốn cùng và chết chóc. “Mình bây giời ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:19). Của cải vật chất đến từ chính tạo hoá, là một bàn tiệc được Thiên Chúa dọn sẵn cho loài người hưởng dùng. Nhưng vấn đề nảy sinh khi người ta, lẽ ra phải là những người quản lý khôn ngoan các quà tặng ấy, thì lại nghĩ rằng mình có quyền là những chủ nhân độc quyền của chúng. Chúng ta đang sống trong một thời đại què quặt vì lo âu. Vấn đề nằm ở chỗ mối lo về điều có thể xảy ra không làm cho chúng ta tránh được đau khổ của ngày mai, nhưng chỉ làm chúng ta mất đi niềm hạnh phúc của hôm nay. Những mối lo về thế gian này được liệt kê chi tiết trong Bài Giảng Trên Núi (x. Mt ch. 5–7). “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? … Nhưng trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.  Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:25.33-34). Chỉ có đức tin như sự sống đời đời mới là thước đo thích hợp cho mọi sự, cho thời gian của chúng ta, và cho các mối quan hệ của chúng ta.

NGÀY 22 THÁNG 10, 2019

Thứ Ba Tuần 29 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Gioan Phaolô II, giáo hoàng

Rm 5:12.15b.17-19.20b-21

Tv 40:7-10.17

Lc 12:35-38

Đoạn thư Thánh Phaolô trong bài đọc phụng vụ hôm nay là tâm điểm của Thư gửi tín hữu Rôma của ngài. Ẩn bên dưới lời phát biểu rằng con người cần được cứu chuộc, chúng ta thấy có niềm xác tín rằng tội lỗi làm hoen ố mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Sau khi dùng kinh nghiệm bản thân và Sách Thánh để chứng minh rằng ơn cứu chuộc loài người đến từ Thiên Chúa nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô chứ không phải nhờ phép cắt bì, Thánh Tông Đồ bắt đầu trình bày về trải nghiệm Kitô giáo “của chúng ta”.

Nếu có ai làm thiệt hại một mối quan hệ, gây tổn thương cho bạn mình, thì khi ấy một rối loạn nảy sinh trong tim của chính người ấy, và chỉ có thể khắc phục được khi người bạn chào đón và chấp nhận lại người ấy, chấp nhận lời xin lỗi của người ấy. Thánh Phaolô nói rằng ơn cứu chuộc là lý do và điều kiện để chúng ta sống an hoà với

Thiên Chúa. Nhưng để bạn bè làm hoà lại được với nhau, có thể cần đến một người trung gian hoà giải giữa hai người, nói cho người có lỗi biết rằng người kia không còn để bụng chuyện cũ và đang mở rộng lòng đón chờ người có lỗi. Và khi mọi sự đã qua đi, sợi dây gắn kết sẽ ngày càng bền chặt hơn và niềm vui càng lớn hơn trước. Vậy nên,  Thánh Phaolô nói tiếp, chúng ta biết rằng vị trung gian của chúng ta là Đức Giêsu đã phải chịu nhiều tủi nhục đớn đau để tìm kiếm tôi và thuyết phục tôi tin tưởng vào lòng nhân từ của Cha mà tình thương của Người đã bị tôi khinh dể, tôi hết lòng biết ơn sâu xa và sẵn sàng hân hoan cộng tác với Người trong công việc hoà giải, đồng thời tham dự vào các hi sinh của Người để đem sứ điệp Tin Mừng đến cho những người khác.

Thánh Tông Đồ nêu câu hỏi cho các dân tộc: Làm sao chúng ta có thể hoài nghi tình thương vô biên này, sau khi Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những bằng chứng phi thường như thế? Cái chết lịch sử của Đức Giêsu có một ý nghĩa thần học về sự đau khổ thục tội: Người đã chết vì chúng ta, chết thay cho chúng ta và cho mọi người, đang khi chúng ta đã quay lưng lại với Thiên Chúa. Nói khác đi, Đấng đã nhận sứ mạng trung gian đã được tỏ lộ là người bạn vĩ đại của chúng ta, Người đã vác trên vai gánh nặng mọi tội lỗi của chúng ta khi chúng ta còn cô độc và hư mất. Bằng chứng vô song này của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta sẽ mãi mãi rạng ngời trong lịch sử, soi đường dẫn lối cho các dân tộc.

Phaolô rong ruổi khắp thế giới, không ngơi nghỉ và luôn luôn đầy niềm vui, hiến thân mình rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu chịu hi sinh không phải vì chúng ta là Do Thái hay Hi Lạp, nô lệ hay tự do, người có học hay vô học, giàu hay nghèo, nam hay nữ, nhưng chỉ vì chúng ta là những kẻ tội lỗi cần được ơn tha thứ. Và món quà này đã được ban cho chúng ta không phải do công trạng gì của chúng ta. Điều làm Thiên Chúa vui lòng nhất là không phải trừng phạt chúng ta, nhưng là ban cho chúng ta lòng thương xót cao cả vô biên.

Sau khi Thiên Chúa đã thể hiện mầu nhiệm tình yêu khôn tả này, một tình yêu hoàn toàn ban không cho mọi người, Thánh Tông Đồ nói thêm, không thể nào Thiên Chúa lại không hoàn tất công trình cứu chuộc chúng ta! Vì vậy, ơn cứu độ viên mãn liên quan tới các phúc lành trong tương lai, các phúc lành cánh chung: vinh quang và sự sống đời đời. Bằng cách này, sự bình an và hoà giải mà “bây giờ” chúng ta lãnh nhận và nếm cảm đang hướng tới một sự hoàn thành trong tương lai, vì chúng là bảo chứng cho những hồng ân chúng ta sẽ lãnh nhận sau này.

Để chứng tỏ bản chất ba chiều của sự giải thoát này―nghĩa là giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi Lề Luật, và khỏi sự chết―Thánh Phaolô mô tả tình huống của loài người trước và sau Đức Kitô, bằng cách cho thấy những hậu quả của tội bất tuân của Ađam―một “hình bóng” cho Đấng sẽ phải đến―và những hậu quả của sự vâng phục của Đức Kitô, Ađam mới. Khi suy về câu truyện sa ngã của loài người (Ađam) do sách Sáng Thế thuật lại, Phaolô sử dụng sự thật thần học mà câu truyện này trình bày: nguyên nhân gây ra tình trạng bi thảm của loài người chính là tội lỗi. Tính chất truy nguyên trong tường thuật của sách Sáng Thế chỉ ra tội lỗi như là nguyên nhân gây nên tình trạng khốn khổ của loài người (đau khổ, buồn sầu, bất hoà, bạo lực, và sự chết). Sự bất tuân của Ađam―cả theo nghĩa cá nhân và tập thể (x. St 1:27)―đã khiến cho một sức mạnh hoạt động tai hại xâm nhập vào thế gian.

Nhưng Đức Giêsu Kitô người giải phóng. Nhờ Người mà tất cả được ơn cứu chuộc và có sự sống đời đời. Đức Giêsu là “Ađam thứ hai”, phản diện của Ađam thứ nhất. Con người thứ nhất không có lòng tin vào Đấng Tạo Hoá; ông đã bất tuân và phá vỡ tình bạn với Đấng Tạo Hoá. Nhưng Đức Giêsu là Ađam mới, tuyệt đối trung thành và vâng phục hoàn hảo, hiến mạng sống mình để phục hồi tình bạn của chúng ta với Thiên Chúa. Phản đề này nhấn mạnh rằng ơn phúc Đức Giêsu mang lại thì vượt trội vô song so với sự thiệt hại mà Ađam gây ra. “Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Ðức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Sự tương phản giữa “một người” với “muôn người” nhấn mạnh phạm vi phổ quát của sợi dây tình bạn mới do Chúa Giêsu đem đến.

Chủ đề trọng tâm của bài đọc Tin Mừng là việc Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” Thời kỳ phân cách người tín hữu với điểm hẹn tất yếu này là một thời kỳ trông đợi tích cực. Ý tưởng quan trọng nhất của bài Tin Mừng này là việc chủ nhà đi vắng sau khi đã giao phó ruộng đất cho đầy tớ canh tác và thu hoạch hoa lợi, chứ không bỏ mặc cho ruộng đất của mình ra sao thì ra. Khi gợi ý như thế về cách làm việc của Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ngụ ý về mầu nhiệm tự do được ban cho con người; chúng ta có thể chọn cách quản lý món quà sự sống mà không bị áp lực thể lý, không cảm thấy bị sai khiến bởi sự có mặt của ông chủ.

Trong Sách Thánh, đòi hỏi phải “thắt lưng” được gặp thấy lần đầu tiên ở Xh 12:11. Bối cảnh là việc chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua trước khi thần sứ của Thiên Chúa đến sát hại các con đầu lòng Ai Cập và việc trốn thoát khỏi đất nô lệ. Từ sau sự kiện ấy, “thắt lưng” trở thành một cách nói chung để chỉ về một tiếng gọi phục vụ, được nêu gương bởi Đức Giêsu: “Trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha… Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 12:1.4-5). Với cử chỉ này, việc phục vụ nhân danh Thiên Chúa đã được nâng lên hàng bí tích tình yêu, trong Thánh Thể để người lãnh nhận được thông dự vào sự sống của Đức Giêsu (x. Ga 6:30-58). Không phải ngẫu nhiên mà Tin Mừng thứ tư lấy bữa Tiệc Ly làm bối cảnh cho việc rửa chân. Khi Phêrô không muốn cho Đức Giêsu rửa chân cho mình, viện cớ “không xứng đáng” với Thầy, Đức Giêsu nói, “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8). Rửa chân cho người khác là một cử chỉ được Thầy Giêsu truyền cho các môn đệ như là một biểu hiện của phong cách sống phải đem đến cho mọi dân tộc. Trên thực tế, sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ được thiên thần bảo đừng nhìn lên trời nữa, nhưng hãy đi thi hành sứ mạng để hoàn thành tất cả những điều Đức Giêsu đã nói và làm, với lời hứa rằng Thầy sẽ trở lại với các môn đệ giống như cách Người đã rời bỏ họ (x. Cv 1:11). Chúng ta trông đợi trong niềm hi vọng Thầy sẽ trở lại, và chúng ta thắt dây lưng gọn gàng, nghĩa là phục vụ người khác trong đức tin, rao giảng và giúp họ tham dự vào ơn cứu độ đã được ban cho chúng ta như một bảo chứng trong Thánh Thể.

Ẩn dụ về việc giữ đèn luôn luôn cháy sáng (như trong Xh 27:20 và Lv 24:2) trình bày sự chờ đợi như một thời gian canh chừng chăm chú. Việc biết rằng chủ vắng nhà có thể khiến người ta bị cám dỗ muốn thay thế chủ, muốn mình trở thành những người làm chủ tuyệt đối đời sống của mình và của người khác, và loại bỏ những gì đã được uỷ thác cho mình. Dưới cái nhìn của Thiên Chúa, sự chờ đợi đáp ứng luật tình yêu. Đối với chúng ta đang sống, thời gian chờ đợi chỉ làm tăng thêm ước muốn được gặp Thiên Chúa diện đối diện. Chúng ta phải mạnh mẽ chịu đựng gánh nặng của việc kiên trì với một lời hứa không có hạn kỳ. Điều quan trọng là ý thức rằng mọi mùa trong cuộc đời của chúng ta được sống tốt, tìm kiếm và thi hành ý Thiên Chúa, đều là một kairos, một thời gian thuận lợi để được Chúa gọi về nhà. Luôn luôn sẵn sàng cho thời khắc ấy sẽ làm cho cuộc đời chúng ta thành công.

NGÀY 23 THÁNG 10, 2019

Thứ Tư Tuần 29 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Gioan Capistranô

Rm 6:12-18

Tv 124:1b-8

Lc 12:39-48

Xuyên suốt cả Thư Rôma của ngài, Thánh Phaolô luôn luôn cho rằng dựa vào Luật Môsê là vô ích, vì nó không giải thoát loài người, nhưng làm cho loài người bị nô lệ và bị kết án. Trên thực tế, trước khi có Luật Môsê, tội và sự chết đã hiện hữu trên thế giới rồi, vì tội của Ađam. Nhưng vì khi ấy Luật chưa được mặc khải và vẫn chưa có các giới lệnh, nên không thể qui trách các tội nhân vì các vi phạm của họ, cũng không có các án phạt do Luật cung cấp để áp dụng cho họ. Tuy nhiên, theo luật tự nhiên được viết trong lòng mọi người, trách nhiệm cá nhân về tội vẫn giống nhau cho mọi người. Vì vậy, sau khi nhận Lề Luật, chỉ có người Do Thái thấy trách nhiệm của họ gia tăng, và cùng với nó là các lỗi phạm của họ.

Người Do Thái mong đợi rằng vào những ngày cuối cùng, khi Đấng Mêsia đến, Người sẽ đem đến một Luật mới hay một cách cắt nghĩa mới về Luật. Thời kỳ thứ ba này, mà Phaolô gọi là “thời gian viên mãn”, đã được khai mở bởi sự sinh ra và Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa. Phaolô dạy rằng khi Người đến, chúng ta được giải thoát khỏi Lề Luật, vì ân sủng của Chúa Giêsu bắt đầu ngự trị.

Thánh Phaolô bỏ qua không nói đến câu truyện ông Noê và ý nghĩa có thể có của giao ước, tội, và luật, và ngài đi thẳng từ ông Ađam tới ông Môsê. Ngài có ý đối diện với vấn đề này chỉ căn cứ vào Luật Môsê mà thôi, vì đây chính là luận cứ để một số người Do Thái và Kitô hữu gốc Do Thái, các anh em giả, đang gây rối loạn trong các cộng đoàn Kitô hữu mà Thánh Phaolô đã sáng lập, họ tìm cách áp đặt phép cắt bì như một điều kiện cần thiết để một người được Thiên Chúa cứu chuộc.

Vậy, khi Phaolô phát biểu rằng, vô hình trung, Lề Luật làm cho tội gia tăng và điều này khiến cho ân sủng của Thiên Chúa bị cản trở bởi tội lỗi của loài người, dù chỉ một cách gián tiếp, lời phát biểu của ngài khiến ngài phải hứng chịu nhiều vấn nạn và phê bình. Dự kiến trước những vấn nạn mà ngài có thể sẽ nhận được, Phaolô khẳng định rằng, một khi được tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại, người Kitô hữu sẽ không còn muốn liên quan gì tới tội lỗi và các hậu quả khủng khiếp của nó nữa. Sự công chính hoá của Đức Kitô đem đến ơn cứu chuộc, sự sống và tự do cho mọi người, điều này không có nghĩa là người tội lỗi có thể cứ tiếp tục phạm tội như trước hay thậm chí nhiều hơn trước, khi lạm dụng tự do của mình trong Đức Kitô hay thách thức Thiên Chúa để Người càng tỏ lộ ân sủng nhiều hơn nữa. Người Kitô hữu chân chính coi mình như đã chết cho tội và sống hoàn toàn cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Vì vậy, vì không còn chịu dưới ách Lề Luật, nhưng dưới sự bảo vệ của ân sủng, họ được khuyên nhủ hiến dâng thân xác và toàn thể con người mình cho việc thực hành đức ái và sự công chính; họ được kêu gọi hiến mình hoàn toàn cho việc phụng sự Thiên Chúa vì lợi ích của tha nhân. Đây là sứ mạng truyền giáo tuyệt vời của Hội Thánh. Thực vậy, ơn cứu chuộc cho chúng ta được tái sinh nhờ mối dây liên kết của tình nghĩa tử của Thiên Chúa và đòi hỏi bắt đầu một cuộc sống mới trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.

Lời dạy này của Thánh Phaolô về Lề Luật hoàn toàn hợp với lời dạy của Chúa Giêsu. Người quản lý phạm một lỗi lầm khi không vâng phục một lệnh truyền rõ rệt của chủ, sẽ bị trừng phạt nặng hơn người đầy tớ phạm cùng một lỗi như thế nhưng không biết mình vi phạm luật. Đây là lời dạy rất đơn sơ mà Thánh Phaolô cắt nghĩa trong Thư của ngài. Lề Luật làm tăng trách nhiệm và vì thế làm cho lỗi phạm nặng hơn. Tất cả những ai đã nhận được quyền bính và những phương tiện xã hội, chính trị, kinh tế, pháp lý hay quân sự thì sẽ phải nhận hình phạt nặng nề nếu họ sử dụng quyền lực để lạm dụng, bóc lột hay đàn áp dân Thiên Chúa hay phá hoại nhà cửa của họ, vốn là công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Câu hỏi của ông Phêrô, “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” (Lc 12:41), cho chúng ta thấy rõ khía cạnh cộng đoàn của việc phải cảnh giác. Dụ ngôn của Đức Giêsu được nói cho mọi thành viên của cộng đoàn Hội Thánh, mỗi người được mời gọi thi hành nhiệm vụ của mình với sự trung thành, hằng ngày, không trì hoãn bất cứ việc gì cho ngày mai. Những người được kêu gọi giữ các vai trò lãnh đạo trong cộng đoàn thì có trách nhiệm nặng nề hơn. Thách thức lớn của việc phục vụ Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người không phải là việc sử dụng nó, mà chủ yếu liên quan đến các lãnh đạo của các cộng đoàn. Những ai ngồi ở đầu bàn thì phải lo sao cho những người khác được phục vụ trước khi chính mình được phục vụ. Đức Giêsu khen ngợi người quản lý khôn ngoan và lương thiện, là người không bị loá mắt vì quyền lực nhưng biết quản lý các tài sản của chủ một cách khôn ngoan. “Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình” (Lc 12:43-44). Việc quản lý các của cải ở đời này một cách trung thực, công bằng và minh bạch là những vấn đề rất thời sự trong thế giới hôm nay, một thế giới bị giày vò bởi lòng tham trên phạm vi toàn cầu và ở đó những con người thường bị đánh giá thấp hơn là những sản phẩm và đồ vật. “Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: ‘Chủ ta còn lâu mới về,’ và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những kẻ thất tín” (Lc 12:45-46).

Một điều quan trọng phải chú ý là những lời nói về thái độ của người đầy tớ thất tín, khi hắn nghĩ bụng rằng chủ còn lâu mới về, và phải chú ý tới câu nói cuối về “những kẻ thất tín”. Trong sách Thánh Vịnh, kẻ ngu si và người không tin có Thiên Chúa được đặt sóng đôi nhau: “Kẻ ngu si tự nhủ, / ‘Làm chi có Chúa Trời!’” (Tv 14:1; cũng xem Tv 53:2). Những người muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng họ thì thường không dễ chấp nhận những người khác và khó nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa đối với họ. Tin Mừng tuyên bố rằng Chúa sẽ trở lại làm đấng xét xử và mọi người sẽ phải trả lẽ về đời sống mình. Đây không phải một lời đe doạ. Nó là một phần khoa sư phạm của Thiên Chúa để buộc chúng ta phải suy nghĩ về viễn tượng bị trừng phạt. Cộng đoàn Kitô giáo là mái nhà của Cha, ở đó mọi người ăn mừng sự sống và tình thương. Tuỳ vào những chọn lựa của mỗi chúng ta mà chúng ta sẽ nhận được phần thưởng hay án phạt.

Trong cái nhìn của Thánh Phaolô và của Tin Mừng, và trong ánh sáng của sự chắc chắn về chiến thắng của Đức Kitô trên sự chết, việc nghiêm túc suy xét về sự dữ là một thách thức nghiêm trọng cho sứ mạng Kitô giáo. Cuộc chiến đấu mà Đức Kitô đã khai mở trong tim người môn đệ truyền giáo, nhờ hành động của Thánh Thần trong phép rửa, là một chiều kích trung tâm của việc rao giảng và làm chứng Kitô giáo. Chính vì sứ mạng của Hội Thánh được thúc đẩy bởi sự chắc chắn của chiến thắng và lòng từ bi nhân ái, sứ mạng ấy không sợ hãi trước cuộc chiến chống lại sự dữ dưới bất kỳ hình thức nào. Đối với các tín hữu, là những người đã được ban cho nhiều, họ cũng bị đòi hỏi nhiều―dâng hiến, rao giảng, và chia sẻ tâm tình tạ ơn vì lời loan báo rõ ràng và đầy tin tưởng rằng ơn cứu độ khỏi sự dữ và sự chết chỉ đến từ Chúa Giêsu Kitô.

NGÀY 24 THÁNG 10, 2019

Thứ Năm Tuần 29 Mùa Thường Niên

Lễ Nhớ Thánh Antôn Maria Claret

Rm 6:19-23

Tv 1:1-4.6

Lc 12:49-53

Các bài đọc Kinh Thánh của phụng vụ hôm nay cung cấp cho chúng ta một chủ đề chung: sự tự do Thiên Chúa ban cho mỗi người, việc sử dụng tự do của chúng ta, và những trách nhiệm từ việc sử dụng này. Bài đọc thư gửi các tín hữu Rôma vạch ra một lằn ranh rõ rệt giữa một đời sống làm nô lệ tội lỗi và một đời sống dưới quyền lãnh đạo của Chúa Kitô. Bài đọc cũng chỉ ra điểm cuối của mỗi con đường. Kết quả cuối cùng của nếp sống tội lỗi là sự chết, và sự chết biểu thị sự chia cắt vô phương trở lại. Sự chia cắt này là số phận tự gây ra cho mình của những người cố chấp gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời họ. Viễn cảnh được Phaolô trình bày hoàn toàn tương ứng với viễn cảnh của Tin Mừng. Cùng với viễn cảnh đen tối của việc từ khước Tin Mừng và hậu quả là án phạt, cũng có chân trời rộng mở của sự sống đời đời được đặt nền móng trong Đức Giêsu Kitô. Đối với Phaolô, một chiến binh già với nếp sống nghiêm ngặt tuân giữ các giới luật tôn giáo như là con đường dẫn đến cứu độ, điều quan trọng là phải không ngừng nhấn mạnh rằng sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ con người Đức Giêsu Kitô là một món quà được ban không. Không ai có quyền đòi hỏi điều gì từ Thiên Chúa. Cứu rỗi là một ân sủng, và loài người được mời gọi đón nhận và làm cho nó lớn lên.

Bài Tin Mừng của Luca tuy vắn gọn nhưng gói ghém một sứ điệp rung động,với những cung giọng và hình ảnh quá mạnh mẽ khiến không một người nghe nào có thể dửng dưng. Trước hết, nó chuyển tải một cảm giác cấp bách đòi hỏi mỗi người phải có một lập trường. Sự tỏ lộ của Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu Kitô đã đốt lên một ngọn lửa trong lịch sử của loài người và của mỗi cá nhân. Trong Kinh Thánh, lửa biểu trưng cho lời của Đức Chúa được công bố bởi vị ngôn sứ (x. Gr 5:14; 23:29; Hc 48:1). Nó được liên kết với hình ảnh của cái búa, khi đập vào đá (x. Gr 23:29) thì hàng ngàn tia lửa loé ra. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất” (Lc 12:49). Trong bài đọc này, điểm nhấn được đặt vào những câu trả lời tương phản nhau mà con người và sứ điệp của Đức Giêsu khơi dậy: sự chia rẽ, không chỉ giữa những người xa lạ mà cả giữa những thành viên trong cùng một gia đình. Ở đây chúng ta nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon rằng đứa trẻ (Giêsu) này sẽ trở thành một dấu chỉ sự chống đối (x. Lc 2:34). Nhưng hình ảnh của lửa cũng được Kinh Thánh dùng để nói đến một sứ điệp an ủi: “Ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì” (Is 43:2). Ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bằng nước, nhưng Đức Giêsu sẽ làm phép rửa bằng lửa (x. Lc 3:16). Chính dưới hình lưỡi lửa mà Chúa Thánh Thần sẽ hiện xuống trên Hội Thánh tụ tập ở phòng trên vào ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2:2-4). Lửa cũng được dùng làm hình ảnh diễn tả cuộc phán xét của Thiên Chúa. Mọi sự sẽ được thử luyện trong lửa để tách vỏ trấu ra khỏi hạt lúa. Từ đó có lời khuyên dạy của Thánh Phaolô:

Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức Giêsu Kitô. Người ta có thể dùng vàng bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên đó. Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa. (1 Cr 3:10b-15)

Rõ ràng lửa mà Đức Giêsu đem đến trần gian có liên hệ với phép rửa. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, hay khi Người chịu nạn, lửa mà Người đem đến, nghĩa là ơn của Thần Khí, sẽ cháy lên. Với hai hình ảnh Người sử dụng, Đức Giêsu mô tả cả mầu nhiệm Vượt Qua và kết quả mầu nhiệm này đem lại cho chúng ta. Trên thực tế, ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo rằng Đấng sẽ đến sau ông thì cao trọng hơn ông, và ông không xứng đáng cởi dây dép cho Người. Nếu ông làm phép rửa bằng nước để dọn đường cho Chúa, mời gọi dân chúng sám hối và hoán cải, thì Con của Đấng Tối Cao đến để làm phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, để mọi tạo vật nhìn thấy ơn cứu độ và các kỳ công của Thiên Chúa. Sự ứng nghiệm lời hứa này được Luca mô tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, với câu truyện về Lễ Ngũ Tuần, khi Thánh Thần, quà tặng của Chúa Phục Sinh, ngự xuống trên Hội Thánh dưới hình các lưỡi lửa, đổ tràn trên Hội Thánh sức mạnh ngôn sứ để bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng.

Hẳn là Luca đã từng chứng kiến nhiều cảnh xung đột gia đình trong các chuyến đi truyền giáo của ông trên khắp thế giới, có nhiều cơ hội thường xuyên cùng rao giảng Tin Mừng với Phaolô cũng như với các đồng nhiệp khác. Nhiều cuộc xung đột như thế xảy ra trong các hội đường, như được kể trong sách Công Vụ, do việc một số người chấp nhận Tin Mừng và một số khác từ chối Tin Mừng. Hiển nhiên là có các thành viên trong cùng một gia đình tham dự các nghi thức trong các hội đường. Điều này làm ta nhớ lại một lời dạy khác của Đức Giêsu, khi Người đòi hỏi các môn đệ một tình yêu lớn hơn tình yêu họ dành cho những người thân thích của họ. Lý do rất đơn giản: Đức Giêsu là suối nguồn tình yêu. Chính Người dạy chúng ta tình yêu đích thực, tình yêu hiến mạng sống mình vì người mình yêu. Tình yêu chỉ vì những mối liên hệ gia đình thì rất dễ tan vỡ. Mặt khác, khi tôi trở thành môn đệ Đức Giêsu, tôi không chỉ học biết yêu thương gia đình tôi một cách chân thật, tôi còn học biết từ bỏ tính tham lam và giả đạo đức, mọi thói ích kỷ và kỳ thị, mở lòng tôi ra cho tình huynh đệ đại đồng, chân thành và yêu thương đón nhận những người khác với tôi về tôn giáo, sắc tộc, văn hoá, màu da, địa vị xã hội―những người trước kia vốn là người xa lạ với tôi. Nhưng điều này có thể gây thù nghịch về phía những gia đình và cộng đoàn nào không thích sự khác biệt và từ chối chấp nhận những gì có thể nguy hại cho các truyền thống và các niềm tin của họ. Họ không hiểu lối sống mới này―một cuộc cách mạng thực sự, cả về thiêng liêng và xã hội―và họ từ chối nó. Như chính Đức Giêsu  nói: “Cho đến thời ông Gioan, thì có Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16:16).

Hoà bình là tiếng thường xuyên được dùng trong các bài giảng của Đức Giêsu (x. Mt 5:9) cũng như trong các phản ứng của Người, ngay cả khi đối diện với sự khiêu khích và bạo lực. Đức Giêsu là Thái Tử Hoà Bình; Người là “bình an của chúng ta” (Ep 2:14). Những người được Đức Giêsu kêu gọi phải quyết định các cam kết của mình nằm ở đâu. Lửa mà Đức Giêsu mang tới sưởi ấm con tim, đặc biệt con tim của những người không biết mình phải đi đâu. Xin Người cùng đi với chúng ta, như Người đã cùng đi với các môn đệ trên đường Emmau nhưng họ không biết là Người, mãi cho tới cuối cùng, sau một ngày mệt mỏi và chán nản, họ hỏi nhau, “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:32). Và đó là một khởi đầu mới, sự đổi mới của một ơn gọi mà bất chấp sự dao động của các tông đồ, Chúa đã không bao giờ rút lại. “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29).

NGÀY 25 THÁNG 10, 2019

Thứ Sáu Tuần 29 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 7:18-25a

Tv 119:66.68.76.77.93.94

Lc 12:54-59

Trên kia chúng ta đã nói về lời khẳng định của Phaolô rằng Lề Luật là một lý do khiến cho tội tràn lan, và những chỉ trích của các đối thủ của Phaolô chống lại ngài. Tuy nhiên mục tiêu của Thánh Tông Đồ chỉ là muốn vạch ra rằng Lề Luật tự nó không có sức biến đổi và cứu rỗi con người; nó chỉ cho thấy điều gì là đúng và điều gì là sai, và rốt cuộc chỉ nhấn mạnh vào những điều sai sót của con người. Đây là lý do tại sao Phaolô nói không một chút hoài nghi rằng Lề Luật là tốt lành và thánh thiện, nhưng vấn đề là ở chỗ vì có Lề Luật mà tội lỗi, sự vi phạm các giới luật, được tỏ lộ trong tất cả tính chất nghiêm trọng của nó. Lề Luật đặt ra trước mặt con người con đường sống và con đường chết.

Thánh Phaolô biết rất rõ tấn kịch nội tâm mà mỗi người trải qua, đặc biệt khi chúng ta cố gắng đi theo con đường trọn lành. Nhờ lý trí và ý chỉ, con người hiểu và muốn làm điều tốt, tuân theo các giới răn, nhưng họ gặp một khuynh hướng, một xung lực thúc đẩy làm điều xấu. Nó cho thấy chúng ta là nô lệ và cần một sức lực giải phóng mà chúng ta không có. Chúng ta sinh ra không có tội cá nhân, nhưng chúng ta mang những vết tích của tội và tình trạng rối loạn hoàn vũ, và chịu những hậu quả của nó. Thực vậy, Thánh Phaolô nói, “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Con người trải nghiệm sự mâu thuẫn bi thảm này và tự hỏi: ai có thể giải phóng tôi khỏi cái “tôi” xác thịt yếu đuối này, để trải nghiệm cái “tôi” mới, được chữa lành và đẹp lòng Thiên Chúa? Thánh Phaolô biết Đức Giêsu là nguồn duy nhất của ân sủng và ơn cứu chuộc. Vì thế ngài mời gọi chúng ta cùng với ngài ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa, để chúng ta có thể cầu nguyện cùng với thánh vịnh gia: “Xin Chúa lấy tình thương mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được sống” (Tv 119:76-77).

Ai trung thành giữ luật thì phải cẩn thận để khỏi rơi vào trọng tội kiêu ngạo, giống như người Pharisêu trong đền thờ khinh dể người khác, tự coi mình là công chính trước mặt Thiên Chúa, đi ngược lại lời Kinh Thánh nói: “Trước thánh nhan Ngài chẳng có người nào là công chính” (Tv 143:2). Cũng có thể là người ấy không có can đảm để đi bước tiếp theo mà chính Lề Luật dẫn đưa. Người tuân giữ các giới răn thì ở trên con đường dẫn tới sự sống đời đời, như được thấy trong câu truyện của người thanh niên đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa xác nhận rằng chàng thanh niên này đang đi đúng đường. Điều quan trọng ở đây là con đường này đã dẫn anh ta tới gặp Đức Giêsu để tiếp tục tìm kiếm, vì Đức Giêsu là “đường” dẫn tới sự sống (x. Ga 14:6) và là “cửa” dẫn vào Nước Trời (x. Ga 14:6). Khi Phaolô nhờ ánh sáng ân sủng hiểu được điều này, ngài đã không do dự đi theo con đường của Đức Giêsu với tất cả sức lực, con tim và trí khôn. Nhưng chàng thanh niên kia vì rất giàu nên đã không có can đảm giống như Phaolô.

Khi Đức Giêsu nói với đám đông là những người biết phân biệt các dấu hiệu của thiên nhiên nhờ kinh nghiệm và trí tuệ của họ, Đức Giêsu chê trách họ hai điều: họ không biết nhận ra thời hiện tại và không biết phán đoán điều gì là đúng. Họ biết giải thích về thời giờ và thời tiết, nhưng họ không thể nhận ra sự hiện diện của thời giờ cứu rỗi. Trong bài giảng mở đầu sứ vụ của Người tại hội đường Nadarét, Người trích sách ngôn sứ Isaia và tuyên bố rằng Người đang khai mở Năm của Đức Chúa, cái “hôm nay” của ơn cứu độ, trong đó các lời hứa của Sách Thánh được ứng nghiệm (x. Lc 4). Bắt đầu từ đó, tất cả những điều Đức Giêsu nói và làm là một sứ mạng loan báo Tin Mừng không biết mỏi mệt. Nhiều người nghe Người giảng và thấy các việc Người làm thì kinh ngạc và ngợi khen Thiên Chúa, “Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!” (Lc 5:26). Khi các môn đệ ông Gioan Tẩy Giả đến hỏi Người có thật là Đấng Mêsia hay họ phải đợi một vị khác, Đức Giêsu trả lời họ bằng cách chỉ ra những kết quả của công việc loan báo Tin Mừng: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:22). Và nếu một mặt, Đức Giêsu buồn phiền vì sự bách hại và chống đối bởi các giới chức quan quyền đạo và đời, bởi những người giàu sang quyền thế không chịu ăn năn sám hối và từ chối mọi cơ hội hối cải, thì mặt khác, Người vui mừng hân hoa khi nhìn thấy niềm vui và sự đơn sơ của những con người thấp hèn đón nhận ánh sáng lời của Người và trở thành những môn đệ của Người để đi vào Nước Trời. Vì vậy, hoan hỉ trong Thánh Thần, Đức Giêsu thốt lên lời ca tụng tạ ơn Cha, Đấng đã che giấu những điều này với những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng đã mặc khải cho những kẻ bé mọn.

Trong tình trạng có những rủi ro cao, chúng ta phải quan tâm ít hơn tới việc giải thích những hiện tượng tự nhiên, và chăm chú nhiều hơn vào việc phân định giờ của lịch sử và giờ của Thiên Chúa. Cách tiếp cận thứ hai này sẽ ít thiệt hại hơn cách tiếp cận bị Đức Giêsu chỉ trích. Vì sự mặc khải về Đấng Mêsia cơ bản là việc của ân sủng, điều cấp bách và có tính quyết định là phải chớp thời cơ tiếp nhận ngay lúc nó được tỏ lộ, mở rộng tối đa lòng mình ra cho những kết quả của nó là ơn cứu độ. Điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tự do và vâng phục đáp lại những lời kêu gọi đặc biệt của sự hoán cải mà Chúa đã nói trên đường đi lên Giêrusalem. Cũng cần đặc biệt chú ý tới các dấu chỉ cụ thể của thời khắc này mà sự hiện diện của Đức Kitô làm cho phong phú bằng một sự mới mẻ tuyệt đối, tạo cho nó một ý nghĩa lịch sử và quan phòng tuyệt vời cho phần rỗi của chúng ta.

NGÀY 26 THÁNG 10, 2019

Thứ Bảy Tuần 29 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 8:1-11

Tv 24:1b-4ab.5-6

Lc 13:1-9

Lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một câu truyện được một vài người kể lại cho Người về những người Galilê bị Philatô sát hại khi họ dâng lễ hi sinh tại Đền Thờ. Không những vụ tàn sát này diễn ra trong khuôn viên Đền Thờ, mà cảnh máu người hoà lẫn với máu các con vật hi tế càng khơi dậy sự ghê tởm và giận dữ. Không rõ tại sao họ kể lại câu truyện này cho Đức Giêsu. Có lẽ vì Đức Giêsu là người Galilê và họ muốn cảnh báo cho Người, giống như sau đó ít lâu về vụ Hêrôđê Antipas muốn giết Người. Hoặc cũng có thể họ muốn đe doạ Người rằng nếu Người bị tố cáo với chính quyền Rôma, Người cũng sẽ phải chịu chung số phận như thế. Hoặc cũng có thể họ chỉ truyền tai nhau một ít lời đồn về các thảm kịch của những người khác; như lời thánh vịnh nói, những kẻ vui mừng vì những khốn khổ của người khác sẽ phải tủi hổ.

Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu gợi ra một cái gì nghiêm trọng hơn: sự phán xét đồng tình đối với số phận của những nạn nhân, cho rằng họ đáng phải chết thảm như thế khi đang cầu nguyện, và hành động tàn bạo của người Rôma là một phán quyết của Thiên Chúa đối với những người bị sát hại. Đức Giêsu không bình luận về sự kiện, nhưng Người rút ra một bài học từ thái độ của những người thuật lại vụ việc đó. Người nói rằng không ai được phép cắt nghĩa những đau khổ, bệnh tật, tai nạn hay thảm kịch của những người khác như là do Thiên Chúa trừng phạt vì các tội lỗi của họ, nhưng mỗi người phải coi tội lỗi của họ như là nỗi bất hạnh ghê gớm nhất và phải thật lòng ăn năn sám hối. Không ai được phép xét xử và phân biệt giữa “người tốt” và “người xấu”. Chỉ một mình Chúa biết sự thật trong lòng con người.

Ngay khi nghe câu truyện này, Đức Giêsu lập tức bác bỏ ý kiến cho rằng có mối quan hệ nhân quả giữa trọng tội và cái chết thảm. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh rằng vụ thảm sát không nhất thiết cho thấy đây là vì các nạn nhân đã phạm một trọng tội kín ẩn nào đó. Đúng hơn, nó giống như những lời cảnh báo để nhắc nhở chúng ta rằng cái chết luôn luôn có thể đến, cả khi chúng ta ít trông chờ nó nhất. Đó là lý do chúng ta phải làm thức tỉnh nơi mọi người nhu cầu cấp bách của sự hoán cải bên trong, chấp nhận và thực thi hoán cải trước khi quá muộn. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bác bỏ ý kiến cho rằng sở dĩ những người Galilê bị Philatô giết và mười tám người bị tháp Siloê đè chết là vì họ tội lỗi hơn những người khác, rồi Đức Giêsu dạy tiếp rằng nếu những người đang nghe Ngài nói mà không hối cải tâm hồn, họ cũng có thể bị diệt vong giống như thế. Họ phải hối cải không phải vì sự hối cải có thể bảo vệ họ khỏi cái chết, nhưng vì sự hối cải đặt họ vào một tình trạng tốt lành về thiêng liêng và nhân bản để gặp Chúa của sự sống, trong sự thanh thản và bình an hoàn toàn của tâm hồn họ. Cái chết mà sự hối cải giải phóng chúng ta là cái chết đời đời, không phải cái chết của thân xác. Hình dung về Thiên Chúa như là nguồn gốc của cái chết thê thảm của một nạn nhân vì họ phạm trọng tội không phải là hình ảnh đúng về Thiên Chúa Cha được Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta. Người không phải là một Thiên Chúa báo thù kẻ có tội, nhưng là một Thiên Chúa kiên nhẫn luôn luôn hi vọng rằng, khi có đủ thời gian, loài người có thể nhận ra được rằng tình yêu họ nhận được là triệt để như thế nào, và nhận thức này sẽ mang lại hoa trái là tình huynh đệ và tình liên đới mà loài người cần phải thể hiện. 

Suy cho cùng, đây chính là cái nhìn mà dụ ngôn này gợi ra, là luận điểm thần học được chuyển thể thành câu truyện về một ông chủ vườn với cây vả và người thợ làm vườn của ông. Thất vọng vì không thu hoạch được trái vả nào từ cây vả mà ông đã chăm sóc nhiều năm, người chủ vườn quyết định chặt nó đi thay vì để nó choán đất trong vườn. Nhưng ngạc nhiên thay, người thợ làm vườn của ông đã can thiệp, anh ta xin ông cho thêm thời gian chăm sóc cây vả và bón phân cho nó, hi vọng nó sẽ ra quả. Đức Giêsu không đưa ra kết luận cho câu truyện, nhưng Người gợi ý rằng ông chủ đã bỏ quyết định chặt cây vả, mở ra một con đường hi vọng. Nếu chúng ta thấy mình được phản chiếu trong hình ảnh cây vả, tin tốt lành cho chúng ta là thời gian mà Chúa Trời còn để cho chúng ta sống là cơ hội để cho ân sủng của Người hoạt động và tạo ra những kết quả nơi chúng ta, đó là sự bình an, niềm vui, sự công chính và tình yêu. Mặt khác, nếu chúng ta thấy mình được phản chiếu trong hình ảnh của người thợ làm vườn, nó là một lời nhắc nhở rằng chúng ta phải cầu thay nguyện giúp và có những cố gắng để giúp những người khác ăn năn hối cải. Là cộng đoàn Hội Thánh, hiển nhiên chúng ta được kêu gọi có một cam kết hai chiều: thứ nhất, không ngừng hoán cải bản thân mình, ngày càng trở nên trong sáng trước Lời Thiên Chúa và dễ dạy với Thần Khí tình yêu ban sự sống; và thứ hai, làm việc cho sự hoán cải của thế giới, không bao giờ làm lu mờ khuôn mặt từ bi và nhẫn nại của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, Đấng chỉ muốn cứu thoát chứ không muốn kết án. Kinh nghiệm cho thấy rằng các trái tim của người ta thường đáp ứng một cách quảng đại khi họ cảm thấy mình được tin tưởng; chúng ta không chinh phục người ta cho tình yêu Thiên Chúa bằng sự sợ hãi, giam hãm họ trong những nỗi bất hạnh của họ. Ước mong rằng khoa sư phạm này hướng dẫn hoạt động truyền giáo của chúng ta mà không giảm thiểu giá trị ngôn sứ sắc bén của nó hay sự hiểu biết thâm sâu về bản tính con người và nội dung ơn cứu độ.

Hình ảnh cây vả trồng trong vườn nho có lẽ gợi ý rằng Nước Thiên Chúa (vườn nho) thì rộng lớn hơn Ítraen hay Giêrusalem (cây vả), và Đức Giêsu là Đấng Mêsia, người làm vườn của Thiên Chúa, đã đến để tìm trong Thành Thánh những hoa trái của nó là lòng thương xót, sự công chính và trung thành. Đây là những hoa trái Thiên Chúa ưa thích, những hoa trái mà “ông chủ vườn” mong đợi. Nhưng thời gian đang cạn dần và quyết định chặt bỏ cây vả đã được ông chủ tính đến, vì ông không thấy cây ra trái. Đây cũng là ý nghĩa của câu truyện về cây vả không có trái của Máccô (Mc 13:28) và của Mátthêu (Mt 21:18-22; 24:32), với kết luận là cây vả bị nguyền rủa.

Nhưng điều ngạc nhiên là trong dụ ngôn của Luca, chính người làm vườn can thiệp với ông chủ vườn, xin ông kiên nhẫn thêm với cây vả của ông, nghĩa là xin ông dủ lòng thương Giêrusalem. Và cho rằng như thế vẫn chưa đủ, người thợ làm vườn còn tự nguyện làm bất cứ điều gì mình có thể để cái cây rất quí này sinh hoa trái. Bởi vì, như lời ngôn sứ Êdêkien tuyên bố trong câu đáp Allêluia hôm nay, Thiên Chúa không vui khi kẻ ác phải chết; trái lại, Người muốn họ ăn năn hối cải, bỏ đường gian tà và nếp sống tội lỗi của họ. “Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en?” (Ed 33:11). Đáng tiếc là người ta đã không đón nhận lời mời gọi, không lắng nghe những lời cảnh cáo, không hiểu những dấu chỉ, không chấp nhận giờ của ân sủng. Nhưng trước khi thảm kịch cuối cùng của Giêrusalem xảy ra, chính Cây Sự Sống là Đức Giêsu đã chấp nhận bị chặt đi để sau cùng, gốc rễ mọi sự dữ được nhổ sạch và Cây ấy được trồng trong trái tim chúng ta, và sống mãi muôn đời bằng nhựa sống của Thánh Thần.

NGÀY 27 THÁNG 10, 2019

Chúa Nhật Tuần 30 Mùa Thường Niên - Năm C

Hc 35:15b-17.20-22a

Tv 34:2-3.17-19.23

2 Tm 4:6-8.16-18

Lc 18:9-14

Giáo huấn của nhà khôn ngoan Ben Sira, người kế thừa giáo lý ngôn sứ xưa về sự công chính và lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với những người nghèo khổ và bị áp bức, dẫn chúng ta tới những tột đỉnh của linh đạo Kinh Thánh đích thực. Sách Đệ Nhị Luật cảnh báo rằng Thiên Chúa là Ðấng “không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10:17), ngược hẳn với con người thường thiên vị dựa theo những thành kiến xã hội, chủng tộc, hay ý thức hệ, khiến cuộc sống của những người thấp hèn phải chịu thiệt thòi. Giáo lý này được áp dụng rộng rãi bởi Đức Giêsu trong lời rao giảng và hoạt động giải phóng của Người, cũng như bởi các tông đồ và các tác giả Tin Mừng, được trình bày trong các bài viết của các ngài và được truyền bá trên khắp thế giới. Trong lòng thương xót vô biên của Người, Thiên Chúa luôn luôn đến với những ai ý thức được tội lỗi và những yếu đuối của mình và tìm kiếm sự trợ giúp và tha thứ của Người. Trái lại, đối với những kẻ kiêu căng, Người để mặc họ lang thang và hoang mang với những tư tưởng kiêu hãnh trong lòng họ.

Dụ ngôn của Đức Giêsu về người thu thuế và người Pharisêu chứng tỏ cách Người nhìn con người, cũng là cách Thiên Chúa nhìn con người. Người không xét đoán người ta theo vẻ bề ngoài, cũng không dựa theo thành kiến, nhưng dựa theo những gì Người thấy rõ trong tâm khảm con người, nhận ra động cơ thực sự thúc đẩy các hành động và lời cầu nguyện của họ.

Trên thực tế, trong các sách Tin Mừng, chúng ta lần đầu tiên gặp thấy ý tưởng Thiên Chúa không thiên vị ai, được nói ra từ chính miệng các địch thủ của Đức Giêsu; mặc dù họ âm mưu hãm hại Người, họ vẫn phải công khai nhìn nhận sự chính trực vẹn toàn của Người, khi họ nói, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20:21; x. Mt 22:16). Đây là đường lối của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thực hành và đã dạy. Người đã chứng tỏ điều này không những trong cách Người tiếp xúc với những người thấp hèn và những người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề xã hội vì bị coi là những kẻ tội lỗi, như những gái điếm và những người thu thuế, hay những người bị coi là ô uế và bị chúc dữ, như những người phong cùi; nhưng Người cũng chứng tỏ điều đó trong tất cả hoạt động loan báo Tin Mừng của Người, phá vỡ mọi bức tường ngăn cách của sự kỳ thị, dù là kỳ thị tôn giáo, xã hội, hay chủng tộc. Thực vậy, Đức Giêsu đã từng chấp nhận lời cầu xin khiêm tốn của viên đại đội trưởng Rôma và đến chữa lành cho đầy tớ ông. Hơn nữa, trong những chuyến đi liên tục như một Thầy dạy lữ hành, Người đã đến thăm vùng Samaria và thường khen ngợi người dân vùng này. Khi đi ngang qua vùng đất dân ngoại, Người đi đến xứ Tyrô và chữa lành cho con gái người phụ nữ Syrô-Phênixê. Băng qua bên kia Biển Hồ Tibêriát, Đức Giêsu đi về phía Thập Tỉnh và chữa lành những người bệnh tật yếu đau. Những chuyến băng qua Biển Galilê liên tục của Người chứng minh Đức Giêsu là Chúa trên thực tại mà biển là biểu tượng; Người cũng có quyền năng dẹp yên bão táp và đi trên mặt biển. Biển cả đáng sợ, một biểu tượng tiêu cực, không còn là một sức mạnh của sự phân cách nữa, nhưng đã trở thành một cây cầu, và qua sứ vụ của Đức Giêsu, trở thành con đường dẫn tới sự hoà giải giữa hai bên, dân Do Thái và Dân Ngoại.

Trong hội đường tại Nadarét, nơi Đức Giêsu giới thiệu chương trình sứ vụ của Người, Người đã thách thức cử toạ về địa vị của Ítraen so với các dân tộc khác như là dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Trên thực tế, những người hiện diện đã phản ứng tiêu cục, lên án lời giảng của Người về sự ứng nghiệm các lời ngôn sứ. Các ví dụ về ngôn sứ Êlia, người được sai đến với bà goá xứ Phênixê, và ngôn sứ Êlisê, người từng chữa lành cho viên tướng Naaman người Syria, đủ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai hay một dân tộc nào; mọi tạo vật đều quí giá trong con mắt của Thiên Chúa. Như lời thánh vịnh gia nói, Đức Chúa tốt lành với mọi người, lòng từ ái của Người bao trùm muôn vật. Người đến gần tất cả những ai thành tâm kêu cầu người. Thánh vịnh gia không kể ra cụ thể một chủng tộc hay quốc gia nào, cũng không nói đến địa vị hay màu da. Nếu tình thương của Thiên Chúa thấm nhập mọi loại, đó là vị muôn loài đều là tạo vật từ bàn tay Người làm ra, và vì thế tình thương của Người là tình thương phổ quát, đầy sự chăm lo cho mọi người, không có một sự phân biệt nào.

Nói thế không có nghĩa là phủ nhận rằng Ítraen đã được Thiên Chúa tuyển chọn để đi vào một giao ước đặc biệt với Người. Nhưng sự tuyển chọn này là để phục vụ một sứ mạng đặc biệt vì lợi ích của mọi dân tộc, phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống trong lịch sử như là Đấng giải phóng những người bị áp bức và cứu chuộc con người trong tất cả thực tại của nó:

Chính các ngươi là nhân chứng của Ta

―sấm ngôn của ÐỨC CHÚA―

là bề tôi Ta đã tuyển chọn,

để các ngươi nhận biết và tin Ta,

và hiểu rõ Ta vẫn là Ta:

trước Ta, chẳng có thần nào khác được hình thành,

và sau Ta cũng vậy. (Is 43:10)

Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ chọn người tôi tớ của Người, nhưng còn hình thành và dạy dỗ người ấy:

Ta là Ðức Chúa, Ta đã gọi ngươi,

vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.

Ta đã nắm tay ngươi,

đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,

làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,

7 để mở mắt cho những ai mù loà,

đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,

dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm. (Is 42:6-7)

Nhìn kỹ hơn lời dạy của Đức Giêsu trong dụ ngôn của Người về người thu thuế và người Pharisêu trong Đền Thờ, chúng ta thấy rằng sự khác biệt giữa hai người này chính là ở những gì có trong lòng họ, được phơi bày trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong cầu nguyện.

Suy cho cùng, chính là với ý hướng cầu nguyện mà người thu thuế và người Pharisêu đi vào Đền Thờ, nhờ đó họ được chia sẻ một thời gian ngắn trong cùng một nơi thánh. Nhưng cái cách riêng mà mỗi người trong họ bắt đầu cầu nguyện chính là yếu tố quyết định số phận và tình trạng thiêng liêng cuối cùng của mỗi người. Người thu thuế, vì có lòng khiêm nhường và thành thật nhìn nhận mình bất xứng và tội lỗi để nài xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên người này trở về nhà thành một người tốt hơn, được biến đổi và được giao hoà bên trong. Đáp lại lời cầu nguyện chân thực của người này, ơn Chúa đã được ban cho. Một lần nữa, chúng ta học được sự thật rằng “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18:14b).

Trái lại, người Pharisêu là một tù nhân bị giam hãm trong cái tháp ngà của tính kiêu ngạo thiêng liêng của mình. Quá ý thức về những việc lành của mình và về giai cấp tôn giáo-xã hội của mình, ông nghĩ mình cao hơn và tốt hơn mọi người khác, dựng lên những rào cản giữa ông và họ, nhục mạ và miệt thị họ. Có lẽ ông là người tốt cho tới lúc ấy, nhưng thái độ của ông cho thấy sự kiêu căng trong lòng ông, làm hại đến nhân đức mà ông tưởng là mình có trong tâm hồn.

Hơn nữa, chúng ta không đến với Thiên Chúa trong Đền Thờ để ăn mừng và nhìn ngắm bản thân mình trong sự ngưỡng mộ, đồng thời đứng ở trên để nhìn những người khác phía dưới. Chúng ta đứng trước mặt Thiên Chúa trong một cuộc gặp gỡ của tình yêu, và để gặp gỡ những người khác trong Thiên Chúa. Theo nghĩa này, cầu nguyền là chiêm ngắm Chúa, vui mừng vì những điều kỳ diệu mà ơn sủng của Người hoạt động hằng ngày trong lòng sự yếu đuối của loài người, và vui mừng vì lòng thương xót không mỏi mệt của Người giúp nâng dậy những người đã ngã và những người muốn đứng dậy trở lại.

Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta tức khắc có thể bị cám dỗ tự đồng hoá mình với người thu thuế, đơn giản là vì người này có chỗ đứng tích cực trong câu truyện. Đó là một dấu hiệu của ước muốn tế nhị của con người là làm cho mình được an tâm. Nhưng dụ ngôn mời gọi chúng ta nhìn vào bên trong để loại bỏ mọi sự ý thức về tính tự mãn của mình và sự khinh dể người khác, để tìm được một trái tim đơn sơ, khiêm nhường và đầy tình huynh đệ, biết cách nhìn vào mình và người khác với một cái nhìn từ tâm và hi vọng. Về phương diện này, thường cần phải đặt câu hỏi về cách chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện bộc lộ cho chúng ta điều gì về chiều sâu và chất lượng của trái tim chúng ta? Cầu nguyện tỏ cho chúng ta biết điều gì về bản thân mình, về cách chúng ta giao tiếp với người khác và về cách chúng ta nhận định về người khác một cách tự nhiên trong tương quan với chúng ta? Nó tỏ lộ cho chúng ta thấy điều gì về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nhắc nhở chúng ta về vị trí trung tâm của cầu nguyện trong tương quan với Hội Thánh và sứ mạng của Hội Thánh. Cầu nguyện là linh hồn của việc truyền giáo, bởi vì hiệu quả của việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, các mức độ tương quan đúng đắn của chúng ta với chính mình và với thế giới trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, là gốc rễ của trải nghiệm về sự thật cứu rỗi chúng ta. Nhờ cầu nguyện, người môn đệ truyền giáo luôn luôn coi mình nằm trong số những người cần được ơn cứu rỗi mà mình được kêu gọi để loan báo và thông truyền trong các bí tích. Điều chắc chắn là sứ mạng loan báo Tin Mừng được uỷ thác cho chúng ta với danh nghĩa là Hội Thánh không thể được thực hiện trong sự thật nếu chúng ta chọn một thái độ thống trị trong quan hệ với người khác, tự tin và tự mãn về ưu thế đạo đức và tôn giáo của chúng ta. Truyền giáo phải là một đề nghị khiêm nhường về tình bạn với Đức Kitô, với một sự kính trọng sâu xa đối với tự do tôn giáo của những người khác thuộc thời đại chúng ta, kính trọng văn hoá và lịch sử của họ. Khiêm nhường đích thực không bao giờ thiếu sự thật. Đúng hơn, nó là một sự hiện diện hiệu quả của sự thật, một sự thật phán xét, tha thứ và cứu rỗi những người rao giảng và những người nghe rao giảng sự thật ấy.

NGÀY 28 THÁNG 10, 2019

Thứ Hai Tuần 30 Mùa Thường Niên

Lễ Kính Thánh Simon và Thánh Giuđa, tông đồ

Ep 2:19-22

Tv 19:2-5

Lc 6:12-19

Phụng vụ tiếp tục chuỗi lễ kính các Thánh Tông Đồ, hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai thánh Tông Đồ ít được biết đến và thánh tích của các ngài được tôn kính tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, gần bàn thờ Thánh Giuse. Nhóm Mười Hai Tông Đồ, biểu tượng toàn thể một dân mới, đã được Đức Giêsu chọn không phải từ việc Người xét đến đức tính hay công trạng của họ, nhưng, Luca nói, từ một đêm Người cầu nguyện, hiệp thông sâu xa với Chúa Cha, như thể rút lấy từ Người Thần Khí để ban cho những kẻ sẽ được kêu gọi, để biến họ thành tông đồ. Trong Tin Mừng của ông, Luca cho chúng ta thấy trong nhiều dịp Đức Giêsu coi cầu nguyện là việc quan trọng đến thế nào, nó là sự gặp gỡ trong đối thoại thân mật và yêu thương với Cha trên trời của Người.

Vào một số dịp, Luca dừng lại để mô tả các câu truyện này và thậm chí cả nội dung các lời cầu nguyện của Đức Giêsu, để mỗi môn đệ học biết cách cầu nguyện, bằng cách lắng nghe những điều Đức Giêsu nói, và làm những điều Người truyền, thay vì chỉ nói ra thật nhiều lời vô ích hầu xin Thiên Chúa thoả mãn những đòi hỏi ích kỷ của họ. Lời cầu nguyện chân chính của người Kitô hữu phát sinh trong Thiên Chúa. Nó thúc đẩy chúng ta hành động, biến đổi cuộc sống chúng ta, và đưa chúng ta quay về với Thiên Chúa với những tình cảm biết ơn, hiếu thảo, hiến dâng bản thân, và liên đới với người khác. Luca nhấn mạnh rằng các quyết định tối quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu đều được làm trong bối cảnh cầu nguyện, từ lúc Người chịu phép rửa―thậm chí có thể kể từ tuổi thơ của Người―cho tới vườn Ghếtsêmani và trên thập giá.

Trong bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu cầu nguyện thâu đêm, vì Người sắp sửa có một chọn lựa sẽ mãi mãi kiện cường mối liên kết của Người với các môn đệ. Đó là một cam kết dứt khoát, vì với Nhóm Mười Hai, Đức Giêsu sẽ thiết lập cộng đoàn Mêsia của Người. Người sẽ chọn mười hai cột trụ mà, như được hứa trước bởi các ngôn sứ, Người sẽ xây dân của giao ước mới là Hội Thánh trên mười hai cột trụ ấy. Vì dân mới này, và vì toàn thể loài người, Người sẽ đổ máu mình ra, một cách ý thức và tự nguyện, để ban cho họ ơn tha tội. Các “Tông Đồ”―nghĩa là những người được sai đi―đã được Đức Giêsu chọn trước cuộc Khổ Nạn-Chết-Phục Sinh của Đức Kitô, nhưng chỉ sau biến cố Phục Sinh và lễ Ngũ Tuần, sứ mạng của họ mới thể hiện đầy đủ tiềm năng của nó, hoàn toàn thành tựu. Tuy nhiên, trước thời gian này, họ được gọi để được đào tạo và chuẩn bị cho những gì sẽ chờ đợi họ khi Thầy sẽ được làm cho hiện diện bởi Thần Khí. Do đó cầu nguyện được tỏ lộ như là linh hồn của sứ mạng, nghĩa là, là sự hiện diện trung thành và hiệu quả của Thiên Chúa trong hành động của Hội Thánh Người vì sự cứu rỗi của thé giới mà Hội Thánh đã được sai đến.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã nói lên điều này về đức tin và ơn gọi của hai thánh tông đồ Simon người Canaan và Giuđa Tađêô trong buổi triều yết chung của ngài ngày 11 tháng 10, 2006:

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu về hai trong số Mười Hai Tông Đồ: Simon người Canaan và Giuđa Tađêô (đừng lẫn với Giuđa Ítcariốt). Chúng ta hãy nhìn vào cả hai ngài cùng một lượt, không phải chỉ vì hai ngài luôn luôn được đặt cạnh nhau trong các bản danh sách Nhóm Mười Hai (x. Mt 10:3-4; Mc 3:18; Lc 6:15; Cv 1:13), nhưng cũng vì chúng ta có rất ít thông tin về hai ngài, ngoại trừ việc Thư Qui của Tân Ước còn giữ lại một Thư được cho là của Thánh Giuđa Tađêô.

Simon được đặt các biệt danh khác nhau trong bốn bản liệt kê: trong khi Mátthêu và Máccô mô tả ông là “người Canaan”, thì Luca lại gọi ông là “Nhiệt Thành/ Quá Khích”.

Trên thực tế, hai cách mô tả là tương đương vì có cùng một nghĩa: thực vậy, trong tiếp Hípri, động từ qanà có nghĩa là “ghen tương, nhiệt thành” và có thể chỉ cả về Thiên Chúa, vì Người ghen tương với dân của Người (x. Xh 20:5), và cũng có thể chỉ về những con người nhiệt thành phụng sự một Thiên Chúa với lòng sốt sắng tuyệt đối như ngôn sứ Êlia (x. 1 V 19:10).

Do đó, rất có thể là, dù Simon không thực sự là một thành viên của phong trào ái quốc Nhiệt Thành, ít ra ông cũng nổi bật về lòng gắn bó với căn tính Do Thái của ông, và vì thế, gắn bó với Thiên Chúa, với dân của Người, và Lề Luật của Người.

Nếu đúng là như thế, Simon thuộc những giới khác hẳn với Mátthêu, vì Mátthêu đã từng là một người thu thuế và bị xa tránh như là người hoàn toàn ô uế. Điều này cho thấy Đức Giêsu đã chọn các môn đệ và cộng sự viên mà không có sự phân biệt hay kỳ thị vì lý lịch xã hội hay tôn giáo của họ.

Điều Đức Giêsu quan tâm là những con người, chứ không phải các giai cấp hay các nhãn mác xã hội! Và điều đẹp nhất là trong nhóm các môn đệ của Người, bất chấp những khác biệt, tất cả họ đều sống bên cạnh nhau, khắc phục mọi khó khăn có thể tưởng tượng ra được: thực vậy, điều ràng buộc họ lại với nhau là chính Đức Giêsu, nơi Người tất cả họ thấy mình hiệp nhất với nhau.

Đây rõ ràng là một bài học cho chúng ta, những người thường có khuynh hướng nhấn vào những điểm khác biệt và thậm chí tương phản nhau, mà quên rằng trong Đức Giêsu, chúng ta được ban sức mạnh để chiến thắng những mối xung đột liên tục.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng Nhóm Mười Hai là hình bóng trước của Hội Thánh, ở đó phải có chỗ cho mọi đặc sủng, mọi dân tộc và chủng tộc, mọi đức tính nhân bản được tạo thành và hợp nhất trong sự hiệp thông với Đức Giêsu.

Tiếp đến, liên quan đến Thánh Giuđa Tađêô, đây là điều mà truyền thống đã gọi ông, bằng cách kết hợp hai tên gọi khác nhau: trên thực tế, trong khi Mátthêu và Máccô chỉ đơn giản gọi ông là “Tađêô” (Mt 10:3; Mc 3:18), thì Luca gọi ông là “Giuđa, con ông Giacôbê” (Lc 6:16; Cv 1:13).

Biệt danh Tađêô có nguồn gốc không chắc chắn và được giải thích là bắt nguồn từ tiếng Aram taddà’, nghĩa là ‘lồng ngực” và vì thế có thể mang ý nghĩa là “độ lượng”, hay như là cách gọi tắt của một tên gọi Hi Lạp, như “Teodòro, Teodoto”.

Chúng ta biết rất ít về ông. Chỉ có một mình Gioan nhắc đến một câu hỏi ông thưa với Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly: Tađêô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy sẽ chỉ tỏ mình ra cho chúng tôi mà không tỏ mình ra cho thế gian?”

Đây là một câu hỏi rất đúng lúc mà chúng ta cũng nói với Chúa: Tại sao Đấng Phục Sinh không tỏ mình ra trong vinh quang cho các kẻ thù của Người để chứng tỏ rằng Thiên Chúa là Đấng chiến thắng? Tại sao Người chỉ tỏ mình ra cho các môn đệ? Câu trả lời của Đức Giêsu thì bí nhiệm và thâm sâu. Chúa nói: “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14:22-23).

Có nghĩa là chúng ta cũng phải nhìn thấy và nhận ra Đấng Phục Sinh bằng trái tim của chúng ta, để Thiên Chúa có thể đến ngự trong chúng ta. Chúa không hiện ra như một sự vật. Người muốn đi vào cuộc đời chúng ta, và vì thế sự tỏ lộ của Người là một sự tỏ lộ đòi hỏi một trái tim rộng mở. Chỉ bằng cách này chúng ta mới nhìn thấy Đấng Phục Sinh.

Một trong những Thư trong Tân Ước được nói là của Thánh Giuđa Tađêo và thuộc nhóm các Thư gọi là ‘thư chung’, nghĩa là các thư không gửi cho một giáo hội địa phương cụ thể nào, nhưng chung cho mọi tín hữu. Trên thực tế, thư được gửi cho “những người được kêu gọi, được Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành riêng cho Ðức Giêsu Kitô” (c. 1).

Một mối quan tâm chính của thư này là cảnh giác các Kitô hữu chống lại những kẻ viện cớ ân sủng của Thiên Chúa để bào chữa cho lối sống buông thả của mình và làm tha hoá các anh em của mình bằng những lời giảng dạy không thể chấp nhận được, gây chia rẽ trong Hội Thánh “trong những cơn mê sảng của chúng” (c. 8).

Đây là cách mà Thánh Giuđa mô tả các học thuyết và các ý tưởng kỳ lạ của chúng. Ngài thậm chí ví chúng với những thiên thần sa ngã và ngài nói trắng ra rằng “chúng đi vào con đường của Cain” (c. 11).

Hơn nữa, ngài không chút thương hại mà gọi chúng là “những đám mây không có nước, cuốn theo chiều gió. Họ là cây cuối mùa thu, không trái, chết hai lần, bị nhổ tận rễ. Họ là sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi của họ. Họ là những vì sao lạc, u ám tối tăm là nơi dành cho họ đến muôn đời” (c. 12-13).

Có thể dễ thấy rằng tác giả của thư này đã sống trọn vẹn đức tin của mình, trong đó bao gồm những thực tại cao cả như tính trung thực và niềm vui, sự tín thác và ngợi khen, vì tất cả hoàn toàn được thúc đẩy bởi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đuy nhất và lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Vì vậy, xin hai Thánh Tông Đồ Simon người Canaan và Giuđa Tađêô giúp chúng ta tái khám phá vẻ đẹp luôn luôn mới mẻ của đức tin Kitô và sống đức tin ấy không mệt mỏi, biết làm chứng đức tin một cách mạnh mẽ và đồng thời ôn hoà.

NGÀY 29 THÁNG 10, 2019

Thứ Ba Tuần 30 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 8:18-25

Tv 126:1b-6

Lc 13:18-21

Ngây ngất trước vẻ đẹp của tạo thành, thánh vịnh gia tự hỏi:

Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,

muôn trăng sao Chúa đã an bài,

thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,

phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8:4-5)

Biết bao lần chúng ta ngây ngất trước cảnh đẹp của tạo thành, khi chiêm ngắm bầu trời đầy sao ban đêm, khi ngồi bên bờ một dòng sông hiu hiu gió thổi, say đắm nhìn một buổi hoàng hôn hay một chiếc cầu vồng, hay ngắm nhìn bày trẻ con cùng nhau chơi đùa hạnh phúc, không phân biệt màu da, chủng tộc hay giai cấp xã hội? Biết bao lần chúng ta tự hỏi mình: tại sao mà cái thế giới kỳ diệu này, cái thế giới tiếp nhận và chăm sóc chúng ta chỉ trong một thời kỳ ngắn, mà lại phải chịu cảnh bạo hành trong bàn tay chúng ta? Tại sao chúng ta không thể sống trong hoà bình và hoà hợp, biến ngôi nhà chung của chúng ta thành một tổ ấm để cùng nhau chung sống trong tình huynh đệ, một nơi ở dễ chịu cho mọi người? Các kế hoạch của loài người thật quá vô lý!

Trong bài đọc trích Thư gửi các tín hữu Rôma hôm nay, Thánh Phaolô có vẻ chỉ cho chúng ta thấy một sợi dây mầu nhiệm nối kết loài người với mọi loài thụ tạo khác, một sợi dây liên kết làm cho loài người trở thành phát ngôn viên của toàn thể công trình tạo dựng của Thiên Chúa, và cũng là người chăm sóc nó. Toàn thể vũ trụ tìm thấy nơi loài người sự ý thức của nó và qua loài người làm cho nó được biết đến và dần dần tỏ lộ vô vàn những bí mật rực rỡ của nó. Thánh Tông Đồ dựa vào truyền thống lâu đời của Kinh Thánh nhìn loài người như là người diễn giải lời ca ngợi mà mọi tạo vật dâng lên Chúa của nó, thế giới tự nhiên, các sinh vật, và mọi yếu tố của toàn thế giới, trong đó có thời gian và không gian.

Các tác giả Kinh Thánh, những người nam người nữ nối tiếp nhau qua các thế kỷ, đã sử dụng nhiều hình thức văn chương khác  nhau để nói về thế giới và các tạo vật của thế giới, được biết đến vào thời của họ, lẽ dĩ nhiên. Họ diễn tả một cách thi vị, bằng những bài thánh vịnh và thánh thi, những bài thánh ca và vinh tụng ca, những kiểu nhân cách hoá và những câu truyện, nhưng luôn luôn bằng một cái nhìn của đức tin, với sự kinh ngạc và biết ơn vì sự tốt lành của mọi sự mà Thiên Chúa đã dựng nên qua quyền năng của Lời Người. Vì lý do này, mọi tạo vật được in dấu ấn bằng Lời của Đấng Tạo Hoá và biểu lộ một chút của vinh quang Thiên Chúa và vẻ đẹp vô hạn của vinh quang ấy, một chút của tình yêu dịu dàng và thơ ngây, một chút của sự khôn ngoan và thông minh, nó thấm nhuần toàn thể vũ trụ, kết hợp vũ trụ một cách hài hoà trong một bản giao hưởng của sự sống muôn hình vạn trạng!

Nhưng hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa chưa kết thúc, vì Cha là Đấng Tạo Hoá không bao giờ thôi hiện diện trong vũ trụ và trong lịch sử loài người, ban sự sống và niềm hi vọng, hướng dẫn số phận của các dân tộc và chuẩn bị cho họ một tương lai huy hoàng, một thế giới với trời mới và đất mới. Trong tất cả những sự kiện lớn của lịch sử Ítraen (lời hứa cho các tổ phụ, cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, các vị vua, lời rao giảng của các ngôn sứ, cuộc lưu đày, cuộc hồi hương, niềm hi vọng thiên sai, việc học hỏi lời Thiên Chúa bởi các bậc hiền nhân), chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và sáng kiến của Người để làm cho các sự kiện này diễn ra. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng nước ân sủng của Thiên Chúa lưu chảy trong giòng sông lịch sử của nhân loại. Với tình yêu vô biên, khoa sư phạm hiền phụ, và sự dịu dàng hiền mẫu, Thiên Chúa từng bước mặc khải, qua các sự kiện và các lời nói của Người, kế hoạch cứu độ cho toàn thể tạo thành. Vì vậy Isaia mô tả niềm vui của vũ trụ trong cuộc giải phóng dân của Người:

Hò reo lên, hỡi các tầng trời, Ðức Chúa đã ra tay.

Tung hô đi nào, hỡi vực sâu lòng đất;

vang tiếng hò reo, hỡi núi đồi,

hỡi rừng sâu với mọi thứ thảo mộc!

Vì Ðức Chúa đã chuộc Giacóp,

đã tỏ vinh quang Người tại Ítraen. (Is 44:23)

Sự can thiệp giải phóng của Chúa làm nên lịch sử, bất chấp sự cứng lòng và nổi loạn của loài người, một lịch sử cứu độ chắc chắn sẽ thành công vì nó dựa vào tình thương muôn đời của Người, quyền năng vô biên của Người, và sự trung tín của Người. Đây là niềm hi vọng Kitô giáo chân chính.

Mặc dù loài người quay lưng lại với Thiên Chúa và muốn loại bỏ Người, tìm cách lấy chỗ của Thiên Chúa và chiếm hữu thế giới, gieo chiến tranh, thù hận và huỷ diệt trong một cố gắng liên tục muốn lấn lướt người khác, nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục hướng dẫn thế giới, thiết lập trật tự thay cho hỗn loạn, sự phong nhiêu thay cho cằn cỗi, tình hiệp thông thay cảnh cô đơn, và hiệp nhất thay cho chia rẽ. Thiên Chúa làm việc này bằng cách chọn những con người, soi sáng lòng họ, ban phát hồng ân và tài năng cho họ, và kiện cường nơi họ ý muốn làm điều tốt. Xuyên suốt lịch sử của họ, dân Thiên Chúa đã nuôi dưỡng sự tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và vào kế hoạch cứu rỗi của Người. Một lần nữa, chính ngôn sứ Isaia làm sống dậy niềm hi vọng này:

Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,

không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.

18 Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan

vì những gì chính Ta sáng tạo.

Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ

và dân ở đó thành nỗi vui mừng. (Is 65:17-18)

Bắt đầu với Mầu Nhiệm Vượt Qua, nơi bừng lên tất cả ánh sáng của quyền năng và tình thương trung thành của Thiên Chúa, Thánh Phaolô chiêm ngắm với niềm hi vọng sự kết thúc vinh quang của lịch sử, với sự tham dự của toàn thể tạo thành. Được gieo trong lòng chúng ta, chính sức năng động của Nước Thiên Chúa phát triển hướng tới sự hoàn thành này. Được hoà vào với nhân tính của chúng ta, chính men của Lời Chúa làm chúng ta hành động như một tạo thành mới. Thần Khí giúp chúng ta ước muốn, tích cực dấn thân, và kiên trì chờ đợi sự tỏ lộ vinh quang mà Thiên Chúa đã hứa cho con cái Người.

Trong Laudato Si’ (số 2), Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết rằng Chị Trái Đất đang kêu gào vì sự hủy hoại do chúng ta, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và bóc lột các tài nguyên. Vì cứ đinh ninh rằng, chúng ta chính là chủ nhân và sở hữu chủ, nên được quyền tận dụng. Bạo lực nằm trong trái tim bị tội lỗi gây thương tích của con người, xuất hiện rõ ràng qua các hiện tượng bệnh lý, mà chúng ta có thể ghi nhận trong đất đai, trong không khí và nơi các sinh vật. Vì thế, giữa những người nghèo bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất, chúng ta sẽ thấy trái đất của chúng ta bị bóc lột và bị tàn phá, “đang rên siết và quằn quại trong cơn sinh nở” (Rm 8, 22). [Bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh]

Một phê bình nghiêm túc và chủ động của Kitô giáo chống lại chủ nghĩa duy nhân, cướp quyền sáng tạo của Thiên Chúa, phá hoại sự hiệp thông giữa người nam với người nữ và các mối quan hệ hoà bình giữa các cộng đồng con người và các dân tộc, là mối quan tâm thực sự trong Thông điệp của Đức Thánh Cha về tạo dựng. Nếu chỉ coi Thông điệp này như một lời mời gọi bảo vệ thiên nhiên và trái đất tức là hoàn toàn bỏ qua sức mạnh phê phán và xây dựng của nó, một sức mạnh phát xuất từ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, trung tâm của vũ trụ và lịch sử. Cuộc tái tạo mới mẻ công trình tạo dựng trong cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa chăm sóc và yêu thích các công trình của Người biết bao, Người sẽ không bao giờ để cho nó rơi vào cảnh hư vô do sự phá hoại của tội lỗi chúng ta.

Và nếu việc chiêm ngắm thiên nhiên làm chúng ta ngây ngất, thì chúng ta càng ngây ngất hơn khi chiêm ngắm câu truyện về ơn cứu độ này, câu truyện về một tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ chịu đầu hàng, một tình yêu chiến thắng tội lỗi chúng ta và làm chúng ta hoan hỉ ngợi ca: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! /
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui!” (Tv 126:3).

NGÀY 30 THÁNG 10, 2019

Thứ Tư Tuần 30 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 8:26-30

Tv 13:4-6

Lc 13:22-30

Chính Thánh Thần cho chúng ta hợp với toàn thể tạo vật và loài người trong tiếng kêu gào khao khát ơn cứu độ. Bị chi phối bởi các mối lo lắng hằng ngày, chúng ta không biết phải cầu xin điều gì thực sự là thiết yếu cho mình. Và vì thế Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết cầu xin và mong đợi điều gì thực sự là tốt lành mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta. Người Kitô hữu mở lòng mình ra cho Thần Khí, Đấng biến niềm khát khao ơn cứu độ của toàn vũ trụ thành những lời cầu xin và mong đợi khẩn thiết. Chúa Cha sẽ không tự mình áp đặt giải pháp cần thiết, nhưng sẽ thực hiện ước muốn mãnh liệt này của trái tim chúng ta, giống như một cuộc cuộc gặp gỡ tình yêu được mong đợi từ lâu. Được tạo dựng với một niềm khát khao như thế, chúng ta sẽ được thoả mãn nhờ sự khẩn cầu và tự nguyện gắn bó.

Tội lỗi và sự chết của chúng ta đã được Chúa Thánh Thần đưa vào trong sự hiệp thông của Người với Chúa Cha và Chúa Con. Trong tình yêu dồi dào vô biên của Người, Thiên Chúa đốt cháy nơi Người mọi hình thức sự dữ, đưa nó trở về lại tình trạng nguyên thuỷ của sự thiện và sự thật, mở ra cánh cửa ơn cứu độ cho mọi loài. “Với những ai gắn bó với Chúa Giêsu, sự dữ là một kích thích để họ luôn luôn lớn lên trong tình yêu,” Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2018. Là kết quả chiến thắng của Đức Kitô trên thập giá nhờ sự phục sinh của Người, ơn cứu độ trở thành nội dung, lý do, mục đích và phương pháp của mọi sự dấn thân truyền giáo của Hội Thánh được sai đến thế giới này.

Có phải rất ít người được cứu rỗi không (x. Lc 13:23)? Là câu hỏi gây rất nhiều tranh cãi vào thời Đức Giêsu, và có lẽ cả hôm nay cũng thế. Và chúng ta, những người nghèo hèn hay cao sang, có sẽ thuộc số những người được chúc phúc không? Chủ đề cứu rỗi là chủ đề trọng tâm đối với Thánh Luca và là chủ đề chính trong Tin Mừng của ngài. Trên thực tế, chủ đề này đã có mặt ngay cả trong những câu truyện về thời niên thiếu của Đức Giêsu: Trong kinh Magnificat, Đức Maria hoan hỉ trong Chúa, Đấng cứu độ của Mẹ (x. Lc 1:47); các thiên sứ loan tin cho các mục đồng, “Hôm nay một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít” (2:1); Người là “vị cứu tinh quyền thế của chúng ta” được ông Dacaria hân hoan đón chào trong bài Thánh Thi của ông, vì Người đến cứu dân Người khỏi kẻ thù và đem đến cho họ ơn tha tội (x. Lc 1:7-79). Chính Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ mà Luca loan báo trong Tin Mừng của ngài, là “ánh sáng soi đường cho Dân Ngoại” (x. Lc 2:32), theo lời Luca thích trích dẫn từ ngôn sứ Isaia (Is 42:6; 49:6). Danh hiệu này hoàn toàn tương ứng với bình minh mới của nhân loại, được khởi đầu khi “Vầng đông từ chốn cao vời” xuất hiện (Lc 1:78).

Đời sống con người phải đối diện nhiều mối đe doạ: thời gian, bệnh tật, kỳ thị, áp bức, đói nghèo, chết. Đức Giêsu có quyền năng cứu thoát loài người không? Trớ trêu thay, Giêrusalem nhắm mắt lại để không nhìn thấy ánh sáng của nó và các dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Trên thực tế, các dấu chỉ này đã hiện diện trong hoạt động rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, như Thánh Luca nhấn mạnh bằng thuật ngữ “cứu độ” cả khi ngài viết về việc chữa lành, như trường hợp Đức Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết (“Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy đi bình an” (Lc 8:48), chữa lành người phong cùi (“Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17:19), người mù thành Giêrikhô (“Anh hãy thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu anh” (Lc 18:42), và con gái ông Giairô (“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu” (Lc 8:50).

Chúng ta gặp thấy nét đặc trưng này trong hai câu truyện khác: trong trường hợp tha tội cho người phụ nữ có tội, Đức Giêsu nói, “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7:50), và trong trường hợp người thu thuế giàu có và tham nhũng Dakêu được hoán cải, Đức Giêsu nói, “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham” (Lc 19:9). Tuy nhiên, tất cả những dấu chỉ này đòi hỏi người bệnh, người có tội, và mỗi người mở lòng mình ra với lòng itn để đón nhận ơn cứu độ là điều cao cả nhất. Các phép lạ chữa lành tỏ lộ ơn cứu độ toàn diện được Đức Giêsu đem đến và thực hiện trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Vì vậy tác giả Tin Mừng [Luca] nói về một ơn cứu độ đòi hỏi sự thay đổi con tim; sự sám hối và hoán cải là cần thiết để chấp nhận Tin Mừng. Với người hỏi Đức Giêsu về chuyện có phải chỉ một số ít người sẽ được cứu rỗi hay không, câu trả lời của Đức Giêsu đặc biệt đầy đủ và giàu ý nghĩa, đồng thời mở ra một chân trời mới của lịch sử loài người. Chúa sử dụng ẩn dụ về cái cửa hẹp để chỉ về sự thách thức mà những ai muốn vào ơn cứu độ phải đối diện, và dụ ngôn về việc dự tiệc Nước Trời để chỉ ra những tiêu chí cho phép các khách mời được vào nhà của Thiên Chúa.

Với những người tuyên bố, “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13:26), người “chủ nhà” hai lần đáp lại rằng ông không biết họ từ đâu đến. Quả là một lời kết án kinh khủng và bất ngờ chống lại những người sống bất công mà vẫn tự xưng mình là thuộc về Người và có quyền được cứu rỗi. Tính cấp bách của sự hoán trong cải “hôm nay” của đời sống chúng ta được làm sáng tỏ một cách vô cùng ấn tượng. Nhiều người giàu có đã từng được gặp Đức Giêsu, nghe Người giảng dạy, nói chuyện với Người, và thậm chí mời Người đến nhà dự tiệc. Nhưng có bao nhiêu người trong số họ đã chấp nhận lời Người yêu cầu họ hoán cải và bác ái với người nghèo giống như ông Dakêu đã làm?

Dụ ngôn này cảnh báo chúng ta về kết quả cuối cùng của việc chọn sống một cuộc sống giàu có nhưng vô cảm và sa đoạ. “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” (Lc 6:24), Đức Giêsu cảnh cáo. Do đó, được cảnh báo về mối nguy của sự giàu có khiến người ta không thể vào Nước Trời, những người nghe Đức Giêsu hỏi Người, “Lạy Chúa, có phải chỉ một ít người sẽ được cứu không?” Tác giả Tin Mừng không để lại một chút mơ hồ nào. Những ai tưởng rằng chỉ cần biết Đức Giêsu lịch sử và giáo huấn của Người, hay được dự các bữa ăn và các việc phụng tự của Người là bảo đảm được cứu rỗi, mặc dù họ sống trong những tội từ chối Thiên Chúa, tham nhũng, bóc lột, hay bất kỳ bất công nào, họ là những người rất sai lầm. Không thể có sự tương hợp giữa ơn cứu độ với việc thiếu đức tin và sống bất công. Mọi người đều được kêu gọi, người Do Thái cũng như dân ngoại, nhưng mọi người đều phải đi qua cửa hẹp. Vi phạm đức công bình và các quyền con người có thể đóng chặt cánh cửa Nước Trời đối với chúng ta. Lối vào cửa thì hẹp, nhưng chưa đóng. Cửa tuy có thể hẹp (x. Lc 13:24), nhưng vì chính Đức Giêsu là cửa của Cha (x. Ga 10:7.9), niềm hi vọng có thể vào và được cứu rỗi trở nên mạnh hơn.

Thánh Luca cảnh báo chúng ta rằng điều này cũng được áp dụng cho người Kitô hữu. Trên thực tế, danh hiệu “Chúa” được gán cho Đức Giêsu trong dụ ngôn này chỉ được dùng bởi những ai nhìn nhận quyền năng cứu độ của danh xưng này. Lời cảnh báo của Đức Giêsu cũng được nói cho cộng đoàn Hội Thánh, để Hội Thánh không mắc sai lầm tự phụ rằng mình bảo đảm được chọn, thay vì đi theo Đức Giêsu trên con đường đức tin, đức cậy, đức mến và đức công bằng. Qui luật này vẫn còn giá trị: cả những người ở xa, những người hèn mọn nhất, những người bị bỏ rơi, những người tội lỗi, những người khác văn hoá và khác tôn giáo, khi họ thi hành bác ái và công bằng, họ có thể trở thành những khách danh dự tại bàn tiệc Nước Trời.

NGÀY 31 THÁNG 10, 2019

Thứ Năm Tuần 30 Mùa Thường Niên

Ngày thường

Rm 8:31b-39

Tv 109:21-22.26-27.30-31

Lc 13:31-35

Khi chúng ta đến gần cuối năm phụng vụ, Lời Chúa giúp chúng ta đồng hành với Đức Giêsu trong chuyến đi lên Giêrusalem, ở đó Chúa sẽ cử hành cuộc “xuất hành” của Người, nghĩa là Mầu Nhiệm Vượt Qua của sự chết và sống lại của Người. Người đã từng đương đầu và dũng cảm vượt qua nhiều chướng ngại và hiểm nguy trên đường, từ vụ các đồng hương Nadarét của Người tìm cách xô Người từ trên núi xuống, cho tới mối đe doạ bỉ Hêrôđê Antipas giết chết. Bị Hêrôđê truy lùng tại Galilê chỉ là một cuộc bách hại khác, và sẽ không phải là cuộc bách hại cuối cùng. Biết rằng có gì đó còn khủng khiếp hơn đang đợi mình ở phía trước, trong thành thánh, xác nhận truyền thống buồn của Giêrusalem bất trung, Đức Giêsu vẫn không quay lại. Không một đe doạ nào có thể ngăn cản Người đi tới để đối diện ngày đã định hay khiến Người bị dao động trong quyết tâm thi hành kế hoạch cứu độ mà Cha đã giao phó cho Người.

Nhiều vị ngôn sứ và người công chính đã từng lên tiếng tố giác tại Samaria và Giêrusalem những tội ác của giới chức quan quyền tôn giáo và chính trị của Ítraen. Hầu như tất cả những người được sai đến đều đã bị bách hại và giết chết. Vụ sát hại Gioan Tẩy Giả chỉ là vụ mới nhất trong một chuỗi dài các tội ác họ đã phạm.

Đức Giêsu không cần những mặc khải hay thị kiến siêu phàm để biết điều gì sẽ xảy ra nếu Người đối diện với uy quyền của Giêrusalem, thành thánh của Đức Chúa là Thiên Chúa, Đức Vua cao cả; thành thuộc về Người do quyền của Người, như câu xướng Allêluia tung hô: “Chúng tụng Ðức Vua, Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Lc 19:38). Người đến trong bình an, đầy sự dịu dàng của người mẹ qui tụ đàn con lại để cứu chúng, như gà mẹ che chở gà con dưới cánh. Người đến để tha tội và cứu dân Người, bất chấp biết bao tội lỗi của họ trong quá khứ. Và cái mà họ cần, mà tất cả chúng ta cần, đó là kết quả của một sự hoán cải chân thành―thực hành lòng tin vào Thiên Chúa và đức công chính.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu không có sự hoán cải? Điều gì sẽ xảy ra nếu Người bị chối từ và bị bách hại giống như các ngôn sứ xưa? Và nếu sự gan dạ của Người khiến Người có thể bị ném đá hay giết chết thì có đáng không? Tại sao một người lại có thể liều đưa mạng sông mình vào tay những kẻ nổi tiếng sa đoạ và độc ác? Thánh Phaolô chỉ có một câu trả lời duy nhất: vì sức mạnh tình yêu của Người đối với chúng ta. Mọi sự, tuyệt đối mọi sự mà Thiên Chúa có thể đã làm để chứng tỏ tình thương của Người đối với chúng ta, thì Người đã làm bằng cách sai Con của Người cho chúng ta. Làm sao chúng ta có thể vẫn còn nghi ngờ tình thương cứu độ của Thiên Chúa, sau tất cả những gì mà Con của Người đã làm cho chúng ta là những kẻ tội lỗi?

Sách Khôn Ngoan đã nói tiên tri về chiến thắng cuối cùng của người công chính vì tình yêu của Thiên Chúa và lòng trung tín muôn đời của Người, khi nói rằng: “Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:4). Điều mà sách Khôn Ngoan tuyên bố, đó là những người công chính chịu thử thách thì xứng đáng với Thiên Chúa vì họ tin cậy vào lòng thương của Người đến cùng, cho tới chết. Do đó, phúc lành và phần thưởng của Thiên Chúa được biểu lộ không phải bằng những vinh hoa phú quí của thế gian này hay được thoát khỏi gian truân, nhưng là vinh quang của đời sống bất diệt mà chúng ta nhận được vì chúng ta không nghi ngờ tình thương và các lời hứa của Thiên Chúa, cả trong những thử thách gian truân nặng nề nhất.

Bây giờ kinh nghiệm này đã được xác nhận và đã trở thành thực tại trong Đức Kitô, nên Thánh Phaolô không thể kìm nén được tiếng kêu của Thánh Thần trong lòng ngài, ngài cất tiếng ca ngợi mầu nhiệm tình yêu khôn tả của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bài thánh thi đầy xúc cảm của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc trong Bài Đọc 1 có lẽ là tổng hợp thi vị nhất của Tin Mừng về Thiên Chúa, Tin Mừng về Con của Người, Tin Mừng Đức Kitô, Tin Mừng được Thánh Tông Đồ loan báo cho mọi người, Do Thái cũng như Dân Ngoại, với đầy sự quyết tâm và lòng mến không mệt mỏi, để mọi người có thể sinh hoa kết quả trong ơn cứu độ nhờ sự vâng phục của đức tin. Bài thánh thi này giúp Phaolô có câu trả lời cho câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ: “Anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, đã hiến mình cho tất cả chúng ta, là bằng chứng sống động, muôn đời chói sáng, về tình thương bất diệt Thiên Chúa Cha dành cho tất cả chúng ta, cho tất cả loài người, và cho muôn loài muôn vật.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết:

Tâm điểm sứ mạng của Hội Thánh là loan truyền đức tin, diễn ra nhờ sự lan toả của tình yêu, ở đó niềm vui và sự phấn khởi biểu thị cho một ý nghĩa mới được khám phá và một sự hoàn thành trong cuộc đời. Việc truyền bá đức tin “bằng sức lôi cuốn” đòi hỏi phải có những tâm hồn cởi mở và được mở rộng bởi tình yêu. Không thể đặt giới hạn cho tình yêu, vì tình yêu mạnh như sự chết (x. Dc 8:6). Và sự lan toả tình yêu ấy phát sinh sự gặp gỡ, làm chứng, công bố; nó phát sinh sự chia sẻ tình bác ái với tất cả những ai còn xa cách đức tin, thờ ơ với đức tin và thậm chí có thể còn thù nghịch và chống đối đức tin.Các khung cảnh nhân bản, văn hoá và tôn giáo vẫn còn xa lạ với Tin Mừng của Đức Giêsu và với sự hiện diện bí tích của Hội Thánh biểu thị cho những vùng ngoại vi tột cùng, những nơi “tận cùng của trái đất”, là những nơi mà kể từ sau ngày Phục Sinh đầu tiên, các môn đệ của Đức Giêsu đã được sai đến, với niềm tin chắc rằng Chúa luôn luôn ở với họ (x. Mt 28:20; Cv 1:8). Đây là cái mà chúng ta gọi là missio ad gentes, sứ mạng đến với muôn dân. Vùng ngoại vi hoang vu nhất trong tất cả vùng ngoại vi là nơi mà loài người cần Đức Kitô nhưng vẫn thờ ơ với đức tin hay tỏ ra chán ghét đời sống sung mãn trong Thiên Chúa. Mọi sự nghèo khó vật chất và thiêng liêng, mọi hình thức kỳ thị chống lại các anh chị em chúng ta, luôn luôn là hậu quả của việc từ chối Thiên Chúa và tình yêu của Người. (Sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2018)

Đức Kitô là tình yêu hằng ở trong chúng ta và đánh thức những ai đang chìm trong giấc ngủ của sự chết; đó là tình yêu ở với chúng ta ngay từ khởi đầu lịch sử của chúng ta và tồn tại cho đến hết thời gian và vượt quá thời gian; đó là tình yêu đi xuống tận vực sâu và đi lên chín tầng trời, cứu chúng ta khỏi mọi nỗi sợ hãi, khỏi tình trạng nô lệ và khỏi mọi kẻ thù và kẻ áp bức chúng ta, tình yêu ấy giải phóng chúng ta để đưa chúng ta vào vinh quang của cuộc sống hiệp thông. Đức Kitô là tình yêu kiện cường chúng ta, giúp chúng ta tự tin, táo bạo, không thể bị đánh bại, không chỉ đối với những kẻ thù là những con người và những vật hữu hình, nhưng cả đối với những ác thần vô hình, vì Thiên Chúa ở với chúng ta. Những lời cáo tội chúng ta đã được rút lại; tội chúng ta đã được tha; tình yêu đã chiến thắng hận thù; bất công đã bị đánh bại. Mọi lo lắng buồn phiền đã được an ủi; vực thẳm đã được san bằng và núi cao đã cúi mình xuống chúng ta; tử thần đã nhường chỗ cho sự sống và thời gian đã mở cửa đi vào vĩnh cửu. Trong Đức Giêsu Con của Người, Thiên Chúa của sự sống đã tỏ lộ tình yêu và lòng trung tín của Người. Bây giờ, không gì và không ai có thể tách lìa chúng ta ra khỏi Tình Yêu này. Đã đến lúc chúng ta hoan hỉ cất tiếng hô, “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”―Đấng ngự đến cứu độ chúng ta.

CÁC BÀI GIẢNG

VÀ CÁC SUY NIỆM GIỜ KINH TRUYỀN TIN

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ*

 

Ngày 1 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Khiêm nhường và sức mạnh của Tin Mừng,” Thứ Ba, ngày 1-10-2013

 

Ngày 2 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Thiên thần và đứa bé,” Thứ Sáu, ngày 2-10-2015

 

Ngày 3 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Niềm vui của ký ức Kitô giáo,” Thứ Năm, ngày 3-10-2013

 

Ngày 4 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Ơn sám hối,” Thứ Sau, ngày 6-10-2017

 

Ngày 5 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Sức mạnh của những người hèn mọn,” Thứ Ba, ngày 29-11-2016

 

Ngày 6 tháng 10, 2019

Tông du tới Georgia và Azerbaijan (30 tháng 9 – 2 tháng 10, 2016) Thánh Lễ tại Nhà Thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Bài giảng của ĐTC, Chúa Nhật, ngày 2-10-2016.

 

Ngày 7 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Những kẻ làm ngơ người khác,” Thứ Hai, ngày 9-10-2017 [không có trong bản tiếng Anh tại website Vatican]

 

Ngày 8 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

Lòng thương xót trước hết và trên hết,” Thứ Ba, ngày 6-10-2015

 

Ngày 9 tháng 10, 2019

Triều Yết Chung, Quảng Trường Thánh Phêrô, Thứ Tư, ngày 9-10-2013

 

Ngày 10 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Lời kinh can đảm,” Thứ Năm, ngày 10-10-2013

 

Ngày 11 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Cảnh giác chống lại tính thế tục,” Thứ Sáu, ngày 13-10-2017

 

Ngày 12 tháng 10, 2019

Tông Huấn Maximum Illud của ĐTC Bênêđíctô XV

 

Ngày 13 tháng 10, 2019

Bài giảng Thánh Lễ của ĐTC, Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 13-10-2013

 

Ngày 14 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Hội chứng Giôna,’ Thứ Hai, ngày 14-10-2013

 

Ngày 15 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Yêu Thiên Chúa và tha nhân chiến thắng tội ngẫu tượng và thói giả đạo đức,” Thứ Ba, ngày 15-10-2013

 

Ngày 16 tháng 10, 2019

Triều Yết Chung, Quảng Trường Thánh Phêrô, Thứ Tư, ngày 16-10-1013

 

Ngày 17 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Môn đệ của Chúa, không phải của ý thức hệ,” Thứ Năm, ngày 17-10-2013

 

Ngày 18 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Buổi xế chiều cuộc đời của người tông đồ,” Thứ Sáu, ngày 18-10-2013

 

Ngày 19 tháng 10, 2019

Triều Yết Chung, Sảnh Đường Phaolô VI, Thứ Tư, ngày 28-12-2016

 

Ngày 20 tháng 10, 2019

Bài Giảng Thánh Lễ của ĐTC, Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 16-10-2016

 

Ngày 21 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Thế nào và Bao nhiêu?” Thứ Hai, ngày 19-10-2015

 

Ngày 22 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Chiêm niệm, gần gũi, dồi dào,” Thứ Ba, ngày 22-10-2013

 

Ngày 23 tháng 10, 2019

Suy niệm giờ Kinh Truyền Tin, Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 11-8-2013

 

Ngày 24 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Lôgích của trước và sau,” Thứ Năm, ngày 24-10-2013

 

Ngày 25 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Ơn biết xấu hổ,” Thứ Sáu, ngày 25-10-2013

 

Ngày 26 tháng 10, 2019

Tông Huấn Evangelii Gaudium, Nhập đề, Đoạn III,

“Tân phúc âm hoá để truyền bá đức tin”

 

Ngày 27 tháng 10, 2019

Bài Giảng Thánh Lễ của ĐTC, Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 27-10-2013

 

Ngày 28 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Một ngày đặc biệt,” Thứ Hai, ngày 28-10-2013

 

Ngày 29 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Nếu chăm sóc mục vụ thiếu sự dũng cảm,” Thứ Ba, ngày 31-10-2017

 

Ngày 30 tháng 10, 2019

Suy niệm giờ Kinh Truyền Tin, Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, ngày 25-8-2013

 

Ngày 31 tháng 10, 2019

Suy niệm ban sáng tại Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae

“Như gà mẹ,” Thứ Năm, ngày 29-10-2015

 

* Các bài suy niệm của ĐGH Phanxicô về các Bài Đọc Thánh Lễ của những ngày trong tháng 10-2019 có thể tìm thấy trong các bài giảng dạy của ngài (2013-2018). Tất cả các bản văn có thể tìm thấy tại website www.vatican.va.

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...