Chúa Nhật -Lễ Chúa Hiển Linh

“Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua” (Mt 2, 1-12)

Chúa Nhật -Lễ Chúa Hiển Linh

Mt 2, 1-12


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật -Lễ Chúa Hiển Linh

Ca nhập lễ

Này Chúa Tể càn khôn ngự đến, tay nắm trọn vương quyền, thế lực và vinh quang.

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến, Lễ Hiển Linh cử hành biến cố ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Họ là ba người ngoài Do Thái, được coi là dân ngoại nhưng đã tìm hiểu và tin nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình. Vì thế ngày lễ này được coi là ngày lễ của niềm tin. Chiêm ngắm cuộc hành trình đức tin của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có dịp để hâm nóng lại niềm tin của mình. Tất cả chúng ta đây là các đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả thế giới nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón tiếp Lời Chúa, để có thể nhận ra Chúa Giêsu trên khắp nẻo đường đời, Người cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình cứu thế của Người. Xác tín như thế, chúng ta cùng thành tâm thống hối.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: Is 60, 1-6

“Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.

Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.

Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.

Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa

Xướng: Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.

Xướng: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.

Xướng: Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ.

Xướng: Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6

“Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 2, 2

Alleluia, alleluia! – Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 2, 1-12

“Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”.

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Vì tình thương, Chúa đã dùng mọi biến cố để tỏ mình cho con người, giúp con người biết được ý Chúa qua các dấu chỉ, và sẵn sàng làm theo ý Ngài. Nhờ đó, mọi người có thể đạt được ơn cứu độ. Ý thức như thế chúng ta cùng dâng lời nguyện xin :

1.“Nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi”.- Xin cho các vị Chủ chăn, biết tìm nơi kho tàng Thánh Kinh những giải đáp cho việc hướng dẫn đoàn chiên, cũng như giúp mọi người tìm đến nguồn sống thật là Đức Kitô, hầu trở nên những người loan báo cho Tin Mừng.

2. “Người sẽ giải thóat kẻ nghèo khó và cứu thoát người bất hạnh”.- Xin cho các tín hữu biết can đảm nhẫn nại trong hành trình về quê trời, để giữa muôn thử thách, họ luôn vững tin như các đạo sĩ, nhờ đó, họ luôn gặp được Đức Kitô trong mọi biến cô cuộc đời.

3. Nhờ nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, các đạo sĩ đã nhận ra điềm báo sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.- Xin Chúa chiếu soi tâm trí những người chưa biết Chúa, giúp họ khám phá ra sự hiện diện của Ngài, qua những công trình nghiên cứu khoa học nơi vũ trụ vạn vật, để họ dễ dàng tin theo Chúa.

4. “Lúc nhìn thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng…”.- Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta trở thành ánh sao dẫn đường đưa nhiều người về tới bến cứu độ.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin ánh sáng Chúa chiếu soi đến những tâm hồn đang sống xa Chúa, giúp họ nhận ra chỉ mình Chúa là lẽ sống, mà tìm về tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, hầu trở nên những chi thể sống động và hữu dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô    

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin đoái nhìn lễ vật Hội Thánh Chúa tiến dâng: đây không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng là bánh rượu tượng trưng cho Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã tự hiến tế và trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng con. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời tiền tụng Hiển Linh

Ca hiệp lễ    

Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông, và chúng tôi mang của lễ đến bái thờ Người.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con tham dự vào bí tích Thánh Thể, xin thương ban ánh sáng bởi trời hướng dẫn chúng con mọi nơi mọi lúc, để từ đây chúng con biết chiêm ngưỡng và đón nhận bí tích này với niềm tin sâu sắc là lòng mến thiết tha. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

Ngôi Sao Giáng Sinh

Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?

Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.

Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?

Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.

Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.

Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.

Gặp gỡ Chúa

Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.

Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.

Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.

Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.

Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.

Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?

Thiên Chúa tỏ mình

Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.

Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.

Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?

Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?

Ánh sao đạo đức
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a.5-6; Mt 2, 1-12
LM ĐAN VINH -  HHTM

THÀNH ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 2, 1-12

(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu? (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin qúi ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái lạy Người”. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

2. Ý CHÍNH: NHỜ ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.

Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường và sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối cùng các ông đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu lộ đức tin bằng thái độ sụp lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Sau đó, các ông vâng lời thiên thần để theo con đường khác trở về quê hương.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: +Vua Hê-rô-đê: Đây là Hê-rô-đê Đại Vương, một con người đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị, băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2, 15). Phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị vua cha cai trị xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng độc ác không kém vua cha. Chính ông đã ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có lần đã xét xử Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy nhà chiêm tinh: Cũng gọi là đạo sĩ, đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây là những nhà thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Melchior da trắng; Gaspar da vàng; Balthaza da đen để nói lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, không chỉ riêng cho dân Do Thái.

- C 5-6: +Họ trả lời: “Tại Bê-lem.”..: Có một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người dựa vào Kinh Thánh biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế là Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành Bê-lem: Là một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem 10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt).

- C 7-8: +Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện: Vì Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của Hài Nhi Cứu Thế và đã ra lệnh cho quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống.

- C 9-10: +Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ: Đây là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại... do Thiên Chúa ban, để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu Thế.

- C 11-12: +Họ vào nhà: Chắc chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp tục cư ngụ tại cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện nghi tối thiểu mà đã vào thị trấn Bê-lem thuê một căn nhà ở tạm.+ Sấp mình bái lạy Người: Các đạo sĩ biểu lộ đức tin Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. + Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến: Các nhà chiêm tinh dâng lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, là đặc sản của quê hương các ông. Vàng tượng trưng đức tin, nhũ hương tượng trưng đức cậy và mộc dược tượng trưng đức mến. Theo các giáo phụ thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc dược ám chỉ cuộc tử nạn và mai táng bằng dầu thơm sau này. + Đi lối khác về xứ mình: Hê-rô-đê không thể chống lại quyền năng, tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Những ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn cũng sẽ thất bại và chuốc lấy hậu quả tai hại cho mình mà thôi.

4. CÂU HỎI: 1) Phân biệt Hê-rô-đê Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với Đức Giê-su và về sự gian ác quỷ quyệt? 2) Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có phải là vua không? Vì sao người ta gọi là 3 vua và theo truyền thuyết thì tên ba vị là gì và mang ý nghĩa như thế nào? 3) Các thượng tế và kinh sư Do thái dựa vào đâu mà nói nơi sinh của Đấng Cứu Thế là Bê-lem? So sánh giữa thái độ của các nhà thông thái của dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại giáo trước việc Đấng Cứu Thế ra đời như thế nào? 4) Hê-rô-đê hỏi về ngày giờ ngôi sao lạ xuất hiện để làm gì? 5) Các đạo sĩ biều lộ đức tin thế nào khi gặp Hài Nhi Cứu Thế? 6) Ý nghĩa tượng trưng của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là gì? Các giáo phụ giải thích ba lễ vật như thế nào?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2, 11).

2. CÂU CHUYỆN:

1) MÓN QUÀ CỦA VỊ ĐẠO SĨ THỨ TƯ:

Chuyện kể rằng, khi ba đạo sĩ là Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Be-lem, thì vị đạo sĩ thứ tư cũng vội chạy đến. Ông cũng đã nhìn thấy ngôi sao lạ và cũng như ba ông kia, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí là gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường. Nhưng sau cùng, ông đã đến trễ vì gặp nhiều sự cố phải giải quyết trên đường: ba vị kia đã gặp Chúa rồi và đã trở về nhà rồi!… Còn ông vừa đến trễ và nhất là lại chỉ đến với hai bàn tay trắng… vì không còn viên ngọc quí nào làm lễ vật dâng cho Hài Nhi Cứu Thế…

Đến nơi, ông nhẹ tay mở cửa chuồng bò để vào thăm bé Giê-su, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, ông thấy Giu-se đang nằm nghỉ trên đống rơm, bé Giê-su thì đang say ngủ trong lòng Mẹ.

Rón rén, vị đạo sĩ thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giê-su và Mẹ Người và bắt đầu thưa với Người qua dòng nước mắt:

– Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật giống như các vị đạo sĩ kia, đó là ba viên ngọc quý to như trứng bồ câu. Nhưng giờ đây con lại không còn viên nào nữa… Con thấy ba vị kia đi trước con ngồi trên lạc đà, con định tiến nhanh lên để đi chung với họ. Nhưng rồi rượu ngon, tiếng chim hót làm con say mê. Tối hôm đó con đã ngủ lại trong một quán trọ. Khi bước vào quán, con thấy một cụ già đau nặng đang lên cơn sốt rét nằm co quắp run rẩy bên lò sưởi. Ngày mai, ông sẽ bị chủ quán đuổi ra ngoài đường nếu không trả tiền ở trọ. Lạy Chúa, xin tha cho con, con đã lấy một viên ngọc trong túi ra và đưa cho chủ quán để nhờ ông này tìm thầy chạy thuốc chữa bệnh và nếu ông lão có bị chết, thì cũng có đủ tiền trả chi phí an táng cho ông.

Ngày hôm sau, con ra đi, giục con lừa của con chạy đuổi theo ba vị kia, vì họ đi bằng lạc đà chậm hơn con. Con đường con đi qua thật vắng vẻ và nhiều cây cối. Một hôm, đang đi thì con nghe thấy có tiếng kêu cứu phát ra từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy tên lính đang hãm hiếp một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con không đủ sức chống lại. Lạy Chúa, xin tha cho con: Một lần nữa con lại đưa tay vào túi lấy ra viên ngọc thứ hai để xin chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi vội vã chạy như bay vào con đường dẫn lên núi.

Giờ đây chỉ còn lại một viên ngọc duy nhất trong túi. Con tiếp tục lên đường. Ít ngày sau, con đã tới gần thị trấn Be-lem. Lúc đó đã quá trưa, con nghĩ mình sẽ cố đến nơi trước khi trời tối. Nhưng kìa một bọn lính đang hung hăng đốt phá một ngôi làng nhỏ. Con hỏi thăm người đi đường thì biết bọn lính đang thi hành lệnh vua Hê-rô-đê là giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống tại Be-lem và vùng phụ cận. Bấy giờ một tên lính đang nắm trên tay một em bé trần truồng, đưa qua đưa lại trước mặt. Đứa bé dãy dụa khóc thét vì sợ. Tên lính nói với mẹ đứa trẻ: ”Bây giờ tao sẽ cho con mày vào đống lửa và nó sẽ bị thiêu cháy như một con heo sữa!” Người mẹ thì đang quì lạy và gào khóc dưới chân tên lính. Không chịu nổi cảnh ấy, một lần nữa, con lấy ra viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để yêu cầu trả con cho bà mẹ. Mẹ nó ôm chặt lấy con, vội chạy trốn đi không kịp nói lời cám ơn. Lạy Chúa, thế là cuối cùng con đã đến đây với hai bàn tay trắng. Xin Chúa tha cho con…

Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông từ từ ngước nhìn lên thì thấy ông Giu-se đã thức dậy, bé Giê-su vẫn nằm trong tay Mẹ Ma-ri-a. Bé quay mặt về phía ông, chìa đôi tay tí hon ra trước mặt ông. Hai mẹ con đều nhìn ông mỉm cười như gián tiếp tiếp nhận các món quà bác ái yêu thương ông đã quảng đại thực hiện cho các người bệnh tật nghèo khổ trước đó…

2) ĐỨC TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG BẰNG VIỆC TẶNG QUÀ CHO THA NHÂN:

Trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chủ tịch Liên Xô Gorbachov đã trao tặng và nhận quà. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Đức Thánh Cha một tập Kinh Thánh, Thánh Vịnh in vào thế kỷ 13 và 14. Món quà là cuốn Kinh Thánh có ý khẳng định rằng giá trị đạo đức và luân lý Kitô giáo là những nhân tố cần thiết để xây dựng xã hội tốt đẹp.

Đáp lại Đức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và toàn thể Giáo Hội muốn trao tặng Đức Kitô cho một xã hội đã từ lâu quên lãng Thiên Chúa.

Riêng bà Raissa, phu nhân chủ tịch Gorbachov, Đức Thánh Cha đã tặng cho bà một cổ tràng hạt. Mẹ Ma-ri-a là nữ vương hòa bình. Do đó, đây là món quà rất cao quý mà một vị giáo hoàng muốn tặng cho một vị phu nhân chủ tịch hay những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.

3) ĐỨC TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG BẰNG VIỆC CẢM THÔNG VỚI THA NHÂN:

Có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: “Tại sao các đạo sĩ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ, mà để Chúa phải nằm trong máng rơm lạnh lẽo như vậy hả mẹ?”

Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự đến nhu cầu của tha nhân. Cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thực tế đời thường. Sự kiện Chúa Giê-su sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng em gái này. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói chung quanh chúng ta. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ để nương thân. Hài Nhi Giê-su đã chạm đến cái cùng cực nghèo khó của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." (Mt 25, 40).

4) ĐỨC TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG BẰNG VIỆC CÔNG KHAI CẦU NGUYỆN:

ARTHUR JONES gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”

Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.

Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:

– Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.

Anh liền đáp lại:

– Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.

Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giê-su đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.

3. SUY NIỆM:

1) XIN THÌ SẼ ĐƯỢC; TÌM THÌ SẼ GẶP; GÕ THÌ SẼ MỞ:

Khi hay tin Đấng Cứu Thế mới ra đời, thái độ của các người liên quan như thế nào?

- Các mục đồng nghèo khó: đang chăn giữ đoàn chiên ở vùng phụ cận Be-lem đã mau lên đường đi tìm kiếm Hài Nhi Cứu Thế dựa theo dấu chỉ mà sứ thần đã cho họ biết. Vua Hê-rô-đê và hoàng cung nghe tin đã đi tìm nhưng không phải để triều bái Người như vua đã nói với các đạo sĩ, nhưng là để tìm giết Người. Còn dân thành Giê-ru-sa-lem thì hoảng hốt, thay vì vui mừng trước tin Đấng Cứu Thế đã ra đời. Riêng các thượng tế và luật sĩ có sự hiểu biết Lời Chúa trong Kinh Thánh, đã có thể chỉ đường cho các đạo sĩ hãy tìm Đấng Cứu Thế tại Be-lem, nhưng chính họ lại không thiết tha đi tìm. Chỉ có các vị đạo sĩ khi nhìn thấy ngôi sao lạ bên trời Đông, đã vội vã chuẩn bị lễ vật và lên đường tìm kiếm. Các ngài đã trải qua nhiều nỗi vất vả và trắc trở và cuối cùng đã tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế. Họ đã sụp lạy, dâng tiến lễ vật và nghe lời sứ thần mộng báo, họ đã chọn đi theo con đường khác trở về quê hương mà không quay lại với con đường gian ác của vua Hê-rô-đê muốn tìm giết Hài Nhi mới sinh.

- Các vị đạo sĩ: chỉ có một dấu hiệu mơ hồ là ánh sao lạ trên bầu trời, nhưng họ đã can đảm ra đi và kiên trì tìm kiếm, nên đã được Chúa trợ giúp vượt qua những gian nan để tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế, rồi tin thờ Người và được hưởng ơn cứu độ Người ban cho. Ngày nay cũng có rất đông anh chị em lương dân đang miệt mài nghiên cứu tìm kiếm sự thật trong các lãnh vực: khoa học kỹ thuật, triết lý, nghệ thuật..., đang cố gắng tu tập để nên tốt hơn dựa theo ánh sáng giới hạn là các điều thiện hảo nơi các tôn giáo ngoài Kitô giáo, hay đang tận tâm lo bảo về môi trường trái đất ngày một an toàn tốt đẹp hơn. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa vẫn đang đồng hành với họ mà họ không hay biết. Xin cho họ sớm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong trật tự lạ lùng nơi vũ trụ, và giúp họ sớm nhận biết Chúa Giê-su là “sự thật toàn vẹn, sự sống đời đời và là đường duy nhất dẫn đưa loài người lên trời gặp Thiên Chúa”.

- Các thượng tế và kinh sư: Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách: Tại Be-lem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Be-lem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”. Sự hiểu biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ là hiểu biết theo sách vở, nên đã không đủ mạnh để thúc đẩy họ hành động dấn thân đi tìm Chúa.

- Mỗi người tín hữu hôm nay: Nguyên việc tin thờ Chúa tại nhà thờ, nghe Lời Chúa giáo huấn là điều cần, nhưng chưa đủ để giúp chúng ta đón nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa đòi chúng ta còn phải luôn đi tìm Chúa và thực thi thánh ý của Ngài qua việc học sống Lời Chúa trong Thánh Kinh, và thánh lễ và qua các dấu chỉ của thời đại. Rồi khi đã tìm gặp Chúa, chúng ta còn phải chu toàn sứ vụ làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúa đến để ban ơn cứu độ cho mọi người, nhưng không phải hết mọi người đều được ơn cứu độ, mà chỉ những ai tin và đi theo con đường của Chúa Giê-su.

2) ĐIỀU KIỆN ĐỂ TÌM GẶP ĐƯỢC CHÚA:

- Muốn tìm thấy Chúa đòi phải hy sinh: Các đạo sĩ đã phải rời khỏi nhà, sẵn sàng đón nhận bất ngờ trong cuộc sống: Họ nghĩ Đấng Cứu Thế phải là con của nhà vua, phải sinh ra tại kinh thành hoa lệ, nên họ đã đến thủ đô Giê-ru-sa-lem rồi vào hoàng cung hỏi: “Vua Do thái mới sinh hiện ở đâu?” Nhưng Hài Nhi Cứu Thế lại không sinh ở nơi giàu sang, mà tại hang chiên bò hôi tanh, trong hình hài một trẻ thơ mới sinh yếu đuối « bọc trong tã và nằm trong máng cỏ » nghèo hèn.

- Muốn tìm thấy Chúa đòi phải dấn thân đi tìm: Các Thượng tế và kinh sư biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế là thành Bê-lem, nhưng lại không đi tìm, đang khi các đạo sĩ dù chỉ suy đóan mơ hồ, nhưng họ lại quyết tâm lên đường tìm kiếm, nên cuối cùng họ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế.

- Muốn đi tìm Chúa cần phải chuẩn bị hành trang: Khi đi tìm Chúa, các đạo sĩ đã chuẩn bị lễ vật mang theo là các đặc sản của quê hương như: vàng, nhũ hương và mộc dược làm lễ vật dâng tiến Hài Nhi. Những lễ vật này chỉ là những biểu hiệu của lễ vật thiêng liêng là đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Khi dâng vàng, các đạo sĩ cũng tuyên xưng vương quyền của Hài Nhi Giê-su. Dâng nhũ hương, các ngài nhận Hài Nhi là tư tế của Giao Ước Mới; Dâng mộc dược là các ngài đề cao mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng Thiên Sai sau này.

- Gặp được Chúa thực sự sẽ giúp biến đổi nên người mới: Sau khi gặp Chúa, các đạo sĩ đã nghe lời sứ thần mộng báo, để không quay lại với vua Hê-rô-đê độc ác, nhưng đã chọn đi đường khác trở về quê hương mình. Đây cũng là bài học cho chúng ta: Một khi đã gặp được Chúa là nguồn Chân Thiện Mỹ, chúng ta sẽ dứt khoát với tội lỗi gian ác, để quyết tâm đi theo đường tin yêu là khiêm tốn phục vụ Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người nghèo hèn.

3) SỨ MẠNG TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN:

Trong cuộc sống đời thường, có nhiều điều như ánh sao dẫn chúng ta đến với Chúa. Có thể là:

– Một câu Lời Chúa trong kinh thánh đánh động lòng ta.
Một bài giảng hay trong thánh lễ thuyết phục ta.
– Một lời khuyên chân tình của người trên nhắc nhở ta.
– Một gương sáng khiến ta xúc động quyết tâm noi theo.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 cũng viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.

4) THỰC THI SỨ MẠNG LÀM ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG CHO LƯƠNG DÂN:

Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao lạ soi dẫn giúp mọi người đến với Chúa.

- Ngôi sao cần phải chiếu sáng: Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi bản thân nó có ánh sáng. Người Ki-tô hữu cũng chỉ chiếu sáng khi cuộc sống của họ có ánh sáng, phản chiếu ánh sáng đón nhận từ ơn Chúa ban và từ việc thực hành Lời Chúa trong Thánh Kinh.

- Phải chiếu ánh sáng lạ là hành động tin yêu: Tin kính Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để sẵn sàng tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối của chia rẽ thù hận, bất hoà bè phái. Tin yêu là ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi nhau, con người trở nên thân thiện với nhau, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng sống hơn.

- Phải chiếu ánh sáng công bình, bác ái thể hiện sự thánh thiện thực sự: Tin Chúa được biểu lộ bằng sự tôn trọng lối sống công bình trong cuộc sống. Yêu Chúa còn phải thể hiện qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân cụ thể.

Tất cả những làn ánh sáng công bình bác ái nói trên sẽ trở thành lòng đạo đức thánh thiện thực sự. Một người chỉ mong tìm kiếm vật chất tiền bạc sẽ luôn sống trong bóng tối tuyệt vọng. Chỉ có ánh sáng của sự thánh thiện thực sự mới đủ sức phá tan bóng tối tội lỗi và làm cho thế giới ngày một chan hòa hạnh phúc bình an.

- Phải chiếu ánh sáng lạ là niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa: Niềm hy vọng một “Trời Mới Đất Mới” cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội ngày một tốt hơn. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng đời sau giúp chúng ta ý thức về giá trị giới hạn của cải vật chất đời này, để luôn tin cậy vào ơn cứu độ của Chúa như lời Chúa phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

4. THẢO LUẬN:

1) Ngày nay bạn có thấy Chúa tiếp tục tỏ mình ra nơi những người lương hay không? 2) Bạn sẽ làm gì để trở thành ngôi sao lạ dẫn đường cho các bạn bè lương dân tin nhận Chúa và đi theo Người?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Biết bao lần chúng con đến nhà thờ nhưng đã không gặp được Chúa. Đạo con giữ mới chỉ gồm các thói quen đạo đức; Lễ con dâng chỉ là những lời kinh nhàm chán; Của cải con cho người nghèo chỉ là những thứ đồ hư vất bỏ… Nhưng con lại tưởng mình đang đạo đức thánh thiện và làm chứng cho Chúa. Ước gì hôm nay con nhận ra những thiếu sót của mình, để của lễ con dâng phải là thứ vàng đức tin quý giá, là nhũ hương của đức cậy khiêm nhu, là mộc dược của lòng hy sinh mến Chúa nồng nàn. Hy vọng Chúa sẽ vui nhận, và ban muôn hồng ân cho chúng con. Để khi gặp được Chúa, như các vị đạo sĩ xưa, chúng con sẽ tránh xa những thói gian ác lọc lừa, sẵn sàng làm theo Lời Chúa dạy, luôn sống hiệp nhất xin vâng và phục vụ, để sau này được về quê trời hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa.- AMEN.

TÌNH NGÀI MỘT CHÚT ĐỦ VUI MỘT ĐỜI
(Lễ Hiển Linh) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

“Hãy trông lại, chỉ một giây thôi. Hãy ban Lời, chỉ một câu thôi. Chúa đã từng dựng nên đất trời. Tình Ngài một chút đủ vui một đời”. Ca từ của một bản thánh ca đã làm tôi ngây ngất một thời. Bỗng giật mình vì Chúa đã tỏ mình cho muôn dân. Lời Chúa phán truyền cho nhân loại đã nên trọn hảo nơi chính Đấng làm người, Giêsu Kitô (x.Dt 1, 1-2). Hội Thánh cử hành Lễ Hiển Linh cũng là để khẳng định rằng Thiên Chúa đã tỏ mình cho muôn dân, bất phân màu da, chủng tộc, quốc tịch, niềm tin, phận vị hay vai vế. Các mục tử, hầu chắc là Do-thái giáo tại cánh đồng Bêlem và ba vị đạo sĩ Đông phương như là đại diện cho toàn thể nhân loại. Chúa đã tự tỏ mình, thế mà vẫn còn đó rất nhiều người chưa nhận ra. Tất cả đều có lý do. Phải chăng là do ở những cách thế Chúa tỏ mình khiến nhiều người khó tiếp nhận? Nào ta cùng xem thử những cách thế Chúa thường dùng để hiển linh hay tự tỏ mình ra cho loài người chúng ta.

1. Vũ trụ thiên nhiên và các dấu chỉ thời đại: Tác giả Thánh Vịnh không chút do dự khi xác nhận: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm…” (Tv 19). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định với dân thành Roma: “Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1, 20).

Khi đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cũng đã mời gọi người đương thời vốn biết luận suy các dấu chỉ thiên nhiên để biết tiết thời nắng mưa hay xuân hè thì cũng phải biết nhìn các hoạt động của Người để nhận ra triều đại Thiên Chúa đang đến (x.Lc 21, 29-31). Các dấu chỉ thời đại qua dòng lịch sử nhân loại cũng là một cách thế Thiên Chúa dùng để bày tỏ thánh ý của Người.

2. Lời Thiên Chúa mạc khải qua Thánh Kinh: “Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng chân nhận kho tàng mạc khải là Thánh Kinh. Tuy nhiên trong niềm tin Công giáo chúng ta còn nhìn nhận vai trò giải thích Thánh Kinh một cách chính thức và Tông Truyền của Hội Thánh.

Sau khi ánh sao lạ vụt tắt, ba nhà đạo sĩ đã vào thành Giêrusalem cầu cứu thì vua Hêrôđê đã cho vời các Trưởng Tế và luật sĩ đến để hỏi xem Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Nhờ lời Kinh Thánh, họ đã trả lời với Hêrôđê: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách Ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 5-6).

Song song với nguồn mạc khải là Thánh Kinh thì Hội Thánh Công giáo còn tin nhận một nguồn mạc khải khác đó là Thánh Truyền. Đó là những gì Chúa Kitô truyền dạy cho các Tồng đồ mà không được ghi lại trong Kinh Thánh. Nói như Thánh Tông đồ Gioan: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu ghi lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21, 25). Đó là “việc lưu truyền Lời Chúa sống động được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, là việc Chúa Cha truyền thông chính mình, nhờ Ngôi Lời và trong Chúa Thánh Thần; việc này vẫn tiếp diễn và tác động trong Hội Thánh” (GLHTCG số 79) (Tự Điển Công Giáo trang 314).

Thiên Chúa đã tỏ mình ra nghĩa là Người đã mạc khải chính Người, chương trình và ý định của Người cho nhân loại chúng ta. Người đã tỏ mình ra qua các công trình của Người theo dòng lịch sử là vũ trụ thiên nhiên, là các biến cố thời đại. Người đã tỏ mình ra qua Thánh Kinh, qua Đấng là Ngôi Lời, qua truyền thống đức tin của Hội Thánh do các Tông đồ truyền lại. Thế nhưng để nhận ra Thiên Chúa cũng như chuơng trình và ý định của Người thì còn cần một yếu tố có tính quyết định về phía con người đó là tấm lòng thành của một lương tâm ngay chính.

Biết bao người thời các đạo sĩ Đông phương vẫn có thể nhìn thấy ánh sao lạ, biết bao người thời vua Hêrôđê như các Thượng tế, các Kinh sư đều thông thuộc Thánh Kinh và ngay cả hôm nay cũng biết bao người đã nghe, hiểu lời giảng dạy của Hội Thánh, tiếp cận cách thời sự các dấu chỉ thời đại qua mạng lưới viễn thông, thế mà họ vẫn chưa nhận ra hay không nhận ra Thiên Chúa. Tất thảy chỉ vì họ đang thiếu tấm lòng thành như ba nhà đạo sĩ năm xưa. Rất có thể vì họ chưa có một lương tâm trong sáng và ngay lành.

“Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8). Sự trong sạch của tâm hồn ở đây không hạn hẹp ở việc giữ lòng thanh sạch, khỏi mọi vương vấn tà dâm. Một tâm hồn trong sạch, thiết nghĩ phải là một tâm hồn biết nhạy bén với điều hay, lẽ phải, với những điều tốt đẹp và sự thiêng thánh. Một tâm hồn trong sạch là tâm hồn biết tự do với những thiện hảo thế trần. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này khi khẳng định với các biệt phái rằng không phải giữ nghi lễ rửa chén bát, tay chân mà nên trong sạch nhưng khi biết đem những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta (x.Lc 11, 37-41). Để có một tâm hồn trong sạch như thế, chắc chắn ta cần phải thanh luyện không ngừng để thoát khỏi những quyến luyến bất chính, từ bỏ tội ác, quyết tâm xa lánh chước cám dỗ đồng thời luôn tích cực dệt xây lòng hướng thượng và chí cầu tiến. “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5, 6). Tình Ngài một chút, đủ vui một đời. Gặp Người một chút, hạnh phúc cả đời.

Lễ Hiển Linh – Năm A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 2, 1-12).

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”.

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Suy niệm

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhân loại cứ mãi lần mò trong đêm tối của tội lỗi, bao đau khổ, bất hạnh đè nặng trên đôi vai con người. Trước những nỗi thống khổ đó, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ, Ngài sai người Con duy nhất là Đức Giêsu đi vào lịch sử nhân loại. Ngài là Thiên Chúa làm người trong thân phận một Hài Nhi. Và hôm nay, Ngài còn tỏ mình ra cho thế giới của những người chưa nhận biết Thiên Chúa là ai, chưa một lần được nghe tên Ngài trong cuộc đời. Lễ Hiển linh được coi là ngày Con Thiên Chúa chính thức tỏ mình ra cho dân ngoại, cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài giữa lòng thế giới. Ngài tỏ mình cho thế giới không phải trong uy quyền và vinh quang như các bậc vua chúa trần gian, Ngài cũng không hiển lộ như một người có trong tay quyền bính và đầy lòng trắc ẩn. Ngài hiển lộ trong thân phận một con người, một Hài nhi nhỏ bé, mong manh và yếu đuối, cần được che chở, cần được bảo vệ và chăm sóc như bao con người khác.

Khi đến giờ Thiên Chúa ghé mắt đoái thương, dân riêng của Ngài như đón nhận một luồng gió mới, một nguồn sống bất tận từ trời cao, tiên tri Isaia đã nhắc bảo cho dân chúng hãy vui lên, hãy loan tin vui đó cho muôn dân, để mọi người đều nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi”. Đau khổ và thất vọng khi phải lần mò trong đêm tối, bao dân tộc đã nhận chịu không biết cơ man nào là thất bại, là đau khổ và chết chóc, con người như thấy bất lực trước những nỗi niềm đó, họ đi tìm sự giúp đỡ của thần linh. Giavê Thiên Chúa đã dang rộng đôi tay, cứu vớt dân riêng Ngài và mọi dân tộc, nếu họ tin nhận Ngài, đưa tất cả trở lại những lối nẻo của bình an, vui mừng và hy vọng, từ đây, họ thấy tương lai của mình không còn đen tối và u sầu, nhưng là hy vọng và mừng vui.

Trước niềm vui được cộng tác với Đức Giêsu phục sinh, đem tin mừng cứu độ cho nhân loại, thánh Phaolo rất đỗi vui mừng, ngài bộc bạch với con cái thành Ê-phê-sô rằng, dân ngoại được cứu độ là nhờ vào tình yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời, con người được chia sẻ niềm vui đó qua những công việc truyền giáo: “nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”. Nhờ tin mừng, nhờ tình yêu thương của Thiên Chúa, dân ngoại được gọi Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh chị em với nhau trong cùng một gia đình. Tất cả đến từ việc Thiên Chúa cúi xuống, chia sẻ thân phận con người và tha thứ mọi lầm lỗi của con người. Từ đó, họ được gọi Ngài là Cha nhân lành.

Các đạo sĩ có thể là những chiêm tinh gia theo dõi sự xoay vần của đất trời và biết sẽ có điềm lạ xuất hiện, có thể đó là những người buôn bán kinh doanh đã đi đó đây, nghe ngóng nhiều nguồn tin về một điềm lạ nào đó từ phương đông, hoặc là những người thích tìm kiếm những sự kiện, biến cố khác thường, nhưng điều quan trọng là họ đã tìm đúng địa chỉ và đúng nhân vật họ tin là có thể thay đổi vận mệnh thế giới, vì thế, khi gặp cậu bé Giêsu trong hang bò lừa, họ quỳ gối thờ lạy và kính dâng những bảo vật quý giá cho Ngài: “Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-ru-sa-lem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Chỉ một hài nhi nhỏ bé xuất hiện trong chuồng bò lừa, đã làm rúng động cả một đất nước, làm lung lay chiếc ngai vàng của nhà vua, làm nghiêng ngả chiếc ghế quyền bính của các nhà lãnh đạo tôn giáo, làm thay đổi suy nghĩ bao nhiêu người, và cũng không thiếu những người vẫn dửng dưng, vẫn ung dung tự tại với hiện tại, không mảy may quan tâm tới sự kiện lớn lao đó.

Đấng có tên gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng con người, đã xuất hiện, nhưng không phải là một vị vua đầy quyền bính, nhưng trong thân phận một em bé, một em bé cần có những bàn tay chăm sóc để được sống, cần có những vòng tay để bảo vệ, cần có những tấm lòng quảng đại để hướng dẫn từng ngày lớn lên cả thể xác lẫn tinh thần. Một Thiên Chúa cúi xuống quá tầm thường, chỉ là một em bé như thế, chắc Ngài mong nơi con người một chút tình thương, chút tình thương đó sẽ giúp con người nhận ra một Thiên Chúa làm người đang ẩn hiện nơi những hài nhi bị tước đoạt sự sống cách oan nghiệt, đầy đau thương, Ngài còn ẩn mình nơi những người già cả đang bị chính con cháu trong gia đình bỏ rơi, bởi các cụ là gánh nặng của cháu con. Ngài còn ẩn mình trong những người bệnh tật, những người bị xã hội loại trừ, những người bị coi là cặn bã của xã hội. Thiên Chúa làm người tại sao lại ẩn mình trong những hạng người như thế, chắc Ngài muốn con người hãy cúi xuống một chút, hãy mở đôi mắt một chút và hãy mở trái tim một chút, để có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa làm người.

Chỉ là một em bé mong manh cần được che chở vậy, làm sao lại có thể đem lại cho con người sự bình an được, dù chỉ là một trẻ thơ yếu đuối cần sự che chở của con người, nhưng khi con người khiêm tốn cúi mình xuống, sẽ nhận ra nơi em bé đó có một trái tim vô cùng lớn, một trái tim sẵn sàng ôm trọn cả thế giới. Chỉ là một trẻ thơ bị săn đuổi, bị lùng bắt nên phải trốn chạy, nên vị Thiên Chúa nhỏ bé đó đang muốn mượn đôi chân của mỗi người, để đến với những người nghèo, chia sẻ với họ những gì họ đang cần, đặc biệt là sự ấm áp của tình người, Ngài cũng đang muốn mượn đôi tay của con người, để che chở và bảo vệ sự sống mong manh nơi các thai nhi, nơi các em nhỏ thiếu ăn thiếu mặc, sống đó đây trên thế giới, Ngài cũng mong được mượn đôi mắt con người để đi tìm những người bị xã hội loại trừ, bị chính người thân trong gia đình xua đuổi. Ngài cũng muốn chia sẻ với những người đau khổ, bởi trên thập giá, Ngài còn đau khổ hơn con người hôm nay nhiều, Ngài cũng muốn gần gũi với những người bị bỏ rơi, sống cô đơn, bởi ngày xưa, trong vườn Cây dầu, Ngài đau khổ và cô đơn hơn con người rất nhiều, Ngài cũng mong được cảm thông với những anh chị em bị chống đối, bởi chính Ngài cũng bị người thân trong nhà, trong làng, hiểu lầm và chống đối kịch liệt. Một Thiên Chúa làm người như thế, cúi xuống với con người, nên một với con người, và sẵn sàng chết cho con người.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hạ mình xuống nơi một Hài Nhi, để chia sẻ và cảm thông với bao hoàn cảnh sống của con người, từ sự cô đơn cho đến bị bỏ rơi, từ sự khinh miệt cho đến bị loại trừ, tất cả chỉ vì sự kiêu căng ngạo mạn, xin giúp chúng con nhận ra sự hiện diện của một Thiên Chúa vinh quang đầy tình thương nơi những người nhỏ bé và thiếu may mắn giữa dòng đời. Chúa đã trải qua những phút giây đau khổ, cô đơn, và sợ hãi trong phận người, chỉ mong để chia sẻ với con người, xin giúp chúng con biết học nơi Chúa để có được đôi mắt cảm thông, trái tim nhân hậu và vòng tay rộng mở, để lên đường tìm gặp Ngài giữa mọi nẻo đường của thế giới, như các đạo sĩ xưa. Amen.


 

“Cảm” được Chúa
Lễ hiển linh 2022 - (Giuse hạt bụi tro)


Hôm nay chúng ta mừng lễ hiển linh. Hiển linh là biểu lộ thần tính, là việc Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, nhập thể làm người, tỏ mình ra cho nhân loại.

Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia đã tiên báo ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel, và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời tiên trưng ấy đã được ứng nghiệm, khi Con Thiên Chúa giáng sinh làm người.

Bài tin mừng kể lại cho chúng ta hành trình các đạo sĩ tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa hài nhi. Thánh Mátthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau trước việc Con Thiên Chúa tỏ mình ra: người thì chấp nhận, kẻ thì từ chối. Các đạo sĩ thì khao khát tìm gặp Chúa, trong khi vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem thì bối rối, xôn xao trong một thời gian ngắn, rồi thôi. Chẳng ai kiên tâm tìm kiếm Chúa như các đạo sĩ Đông phương.

Theo quan niệm của người Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao trên trời có liên hệ mật thiết đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương. Vì vậy, khi thấy ngôi sao xuất hiện, các đạo sĩ chẳng ngần ngại lặn lội đường xa xôi, rủ nhau, cùng nhau và giúp nhau đi tìm cho bằng được Đấng mà ngôi sao chỉ về.

Các đạo sĩ đã chân thành tìm kiếm Chúa và đã gặp được Chúa. Hành trình của các ông không phải lúc nào cũng thuận lợi: có lúc thì ngôi sao sáng tỏ chỉ đường, có lúc thì biến mất, để lại cho các ông sự hoang mang, vô định. Ngôi sao các ông thấy chỉ về một vị vua, nên khi nó biến mất, các ông đã tìm đến cung điện để xin gặp Đức Vua mới sinh của dân Do Thái, vì cứ ngỡ con vua thì mới được làm vua. Điều đó chứng tỏ, các ông đã tìm đủ mọi cách, để gặp cho bằng được đấng mà các ông hằng mong ước. Trong khi đó, các thượng tế và kinh sư rất am hiểu Kinh Thánh, rất am hiểu các lời tiên tri về Chúa cứu thế, nhưng lại không thấy; hay nói đúng hơn, họ biết nhưng lại không muốn thấy, không muốn tìm Chúa. Họ bận rộn đủ điều mà bỏ quên Đấng có thể cứu rỗi và mang lại cho họ một cuộc sống thực sự ý nghĩa.

Ngày nay cũng thếcó khi chúng ta cũng đang ở trong nhóm những người dửng dưng trước Chúa cứu thế. Chúng ta bận rộn đủ điều trong cuộc sống cơm, áo, gạo, tiền... mà bỏ quên Đấng có thể mang lại cho chúng ta một cuộc sống có ý nghĩa.

Đời sống đạo của chúng ta cũng là một hành trình tìm kiếm Chúa không ngừng. Đừng tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa, vì đã là Kitô hữu lâu năm, siêng năng đọc kinh, tham dự thánh lễ, rước lễ mỗi ngày, học hỏi giáo lý xong lớp Thêm sức... Rất có thể chúng ta đã từng gặp được Chúa, nhưng đã đánh rơi mất Chúa từ lâu. Rất có thể chúng ta có đạo mà không sống đạo, biết Chúa mà không “cảm” được Chúa, không “thấy” Chúa. Sự thật là đời sống đạo chỉ có ý nghĩa khi chúng ta “cảm” được Chúa đang yêu thương và gần kề chúng ta, chứ không hệ tại nơi số tuổi sống đạo, hay kiến thức chúng ta có về Chúa. “Cảm” được Chúa là vấn đề của con tim, của tâm hồn, chứ không phải của cái đầu. Nếu đã “cảm” được Chúa thì đi lễ Chúa nhật hay lễ ngày thường cũng là lễ, cũng là giờ dành cho Chúa; không có vấn đề sợ mắc tội trọng vì không đi lễ.

Hơn nữa, chúng ta phải ý thức rằng mình vừa là người tìm kiếm Chúa, vừa là ánh sao soi dẫn người khác đến với Chúa. Người khác ở đây là ai? Chẳng ai xa lạ. Đó là vợ chồng, con cái, người thân, bạn bè của chúng ta. Chúng ta phải là những ánh sao dẫn đưa họ về với Chúa. Một ánh sao sáng, chứ không phải là ánh sao đã tắt ngúm, lạnh căm. Một ánh sao thơm tho, chứ không phải là ánh sao suốt ngày đẫm mùi bia rượu. Một ánh sao vui tươi, hòa nhã với mọi người, chứ không phải ánh sao hay cau có, khó chịu, cằn nhằn, giận hờn... Cuộc đời sẽ ý nghĩa biết bao khi sự hiện diện của chúng ta mang lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho người khác.

Bài tin mừng còn nêu một chi tiết rất đáng lưu ý: Các đạo sĩ được mộng báo đừng trở lại gặp Vua Hêrôđê nên đã đi lối khác mà về nhà mình. Điều đó tượng trưng cho việc các ông đã từ bỏ lối sống cũ, để sống một đời sống mới có ý nghĩa hơn.

Gặp được Chúa thì phải thay đổi đời sống. Dấu hiệu của việc gặp được Chúa là chúng ta phải thay đổi lối sống cũ, để sống một cuộc sống mới, có ý nghĩa hơn. Như thế, nếu chúng ta vẫn đang sống trong u mê và lầm lạc của lối sống cũ, trong những thói quen xấu xa và tội lỗi của mình thì chúng ta vẫn chưa gặp được Chúa, chưa “cảm” được Chúa.

Lễ hiển linh thách thức chúng ta cởi mở và giải thoát tâm hồn. Bởi vì, khi biết cởi mở tâm hồn là khi chúng ta bắt đầu biết sống, cho Chúa và cho người khác. Chúa Giêsu không cần quà tặng của chúng ta, nhưng cần chính con người và trái tim biết yêu thương của chúng ta. Chúa Giêsu cũng mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân mình cho người khác, như cách Chúa đã làm. Đừng bao giờ nghĩ tôi quá nghèo, không có gì để cho đi. Không! Không ai nghèo tới mức không có gì để cho. Nếu không có tiền bạc của cải, chúng ta có thể cho đi thời gian, sức khỏe, sự quan tâm, một nụ cười, một lời hỏi thăm... Không ai nghèo tới mức không có gì để cho. Chúng ta có thể nghèo về tiền bạc vật chất, nhưng đừng để mình nghèo tình thương, nghèo nụ cười, nghèo sự quan tâm giúp đỡ người khác.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa đã tỏ mình ra cho con. Xin cho con biết tìm đến Chúa, để “cảm” được con tim của Chúa đang đập vì yêu thương con, để rồi, con tim của con cũng biết đập vì tình yêu dành cho Chúa và cho người khác. Amen.

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...