Khánh Nhật Truyền Giáo

“Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. (Mc 16,15-20)

Khánh Nhật Truyền Giáo


 


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Khánh Nhật Truyền Giáo

Dẫn vào Thánh lễ

Hôm nay là Khánh nhật Truyền giáo. Hội Thánh dành riêng để cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đồng thời nhắc nhở chúng ta về bổn phận cầu nguyện, đặc biệt cho việc truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh, vì thế mỗi Kitô hữu có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo, nghĩa là đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người.

Giờ đây trong tâm tình sốt mến, chúng ta cùng ăn năn thống hối để dâng Thánh lễ.

Ca nhập lễ

Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc; vì Chúa hùng vĩ và rất đáng ngợi khen.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, xin hãy nhìn đến cánh đồng đầy lúa chín và đoái thương sai thợ gặt đến rao giảng phúc âm cho muôn loài, để dân Chúa được lời hằng sống qui tụ và được thần lực các bí tích thúc đẩy, biết tiến bước trên đường cứu độ và bác ái. Nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con…

Bài Ðọc I: Is 60, 1-6

Trích sách Tiên Tri Isaia.

Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.  Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.  Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.  Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.  Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.  Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Ðức Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 2-5

Ðáp: Âm thanh họ truyền khắp địa cầu.

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. – Ðáp.

2) Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó. – Ðáp.

Bài Ðọc II: 1Tm 2,1-8

Trích Thư Thánh Phaolô Tông Ðồ Gửi Tín Hữu Timôthê.

Vậy tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật.

Vậy tôi muốn nam nhân cầu nguyện mọi nơi thì giăng lên những bàn tay lành thánh, không nóng giận, không cãi cọ.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài đọc sau đây:

Bài Ðọc II: Cv 1, 3-8

Trích sách Công Vụ Tông Ðồ.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Ðồ, Ðức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.

Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất”.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 28, 19-20

Alleluia, alleluia! – Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ. – Alleluia.

Phúc Âm: Mc 16,15-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.

Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.

Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:

Phúc Âm: Mt 28, 16-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:

Phúc Âm: Lc 24, 44-53

Khi hai môn đệ từ Emmau trở về còn đang nói với nhóm Mười Một, thì chính Ðức Giêsu đứng giữa các ông. Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”

Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này. Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta được mời gọi nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác nơi Người trong mọi hoàn cảnh đời sống. Giờ đây chúng ta dâng lên Người những lời khẩn nguyện, xin Người trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời của chúng ta.

1. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử của Giáo Hội, để các ngài chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, trong tinh thần dấn thân phục vụ, ngõ hầu bày tỏ cho mọi người lòng nhân hậu của Chúa.

2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo đang nỗ lực đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho những ai chưa biết Chúa được biết Chúa nhờ lời rao giảng và nhờ chứng tá đời sống của các nhà truyền giáo.

3. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ, biết tôn trọng thiên luật mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm khảm mỗi người, nhờ đó họ trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả cho Chúa những gì thuộc về Chúa.

4. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, kiên vững trong đức tin, quảng đại trong đức ái, nhẫn nại trong niềm hy vọng, nhờ đó đời sống của chúng ta trở thành chứng tá về sự hiện diện của Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con. Xin Thần Khí Chúa giúp chúng con biết chung tay xây dựng một thế giới công bằng, bác ái và huynh đệ hơn. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin nhìn đến dung nhan của Ðức Kitô Ðấng đã hiến thân làm giá cứu chuộc mọi người, để nhờ Người, từ đông sang tây, danh Chúa được ngợi khen nơi các dân tộc và khắp mọi nơi một của lễ duy nhất được hiến dâng lên Chúa uy linh. Nhờ Ðức…

Ca hiệp lễ

Chúa phán: Các con hãy dạy dỗ cho muôn dân, tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, chúng con đã được hồng ân cứu chuộc bổ dưỡng, chúng con nài xin Chúa, nhờ ơn cứu độ muôn đời trợ giúp, cho đức tin chân thật luôn luôn tăng trưởng. Nhờ Ðức Kitô…

Suy niệm

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2008 mang chủ đề: “Được mời gọi để trở thành những môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô”. Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây “là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14). Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời. Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.

Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.

Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.

Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.

Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất. Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.

Truyền giáo là gì?

Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này. Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere. Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật. Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.

Truyền giáo trước hết là “ra đi” khỏi chính con người của mình: chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm. Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác. Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích. “Ra đi” khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm. Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung. Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người. Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm. Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.

Truyền giáo còn là “ra đi” khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội. Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả. Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng. Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.

Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu. Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời. Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự. Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu. Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới. Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa. Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.

Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống. Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.
 

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO NĂM 2023
(XIN CHỦ SAI THỢ RA GẶT LÚA VỀ)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

“Missio” thường được dịch là “truyền giáo”, nên chúng ta thường để ý đến việc truyền đạo, đem Chúa đến cho người khác, mà quên mất “Missio” nghĩa là việc gởi đi, phái đi, sai đi thi hành sứ mạng, thi hành mạng lệnh. Chúng ta chỉ một sứ mạng duy nhất, đó chính là sứ mạng của Đức Kitô, Người được Chúa Cha sai đến thế gian (x. Ga 5,24;17,3); Chúa Kitô Phục Sinh sai Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh (x. Lc 24,49; Ga 15,26). Đức Kitô sai các Tông Đồ và Hội Thánh đi rao giảng Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19; Cv 1,8). Sứ mạng của mỗi người chúng ta xuất phát từ sứ mạng của Đức Kitô. Do đó, “truyền giáo” là thông dự vào và chia sẻ cùng một sứ mạng của Đức Kitô: sứ mạng thì chỉ có một, nhưng bao gồm nhiều sứ vụ khác nhau: sứ vụ tông đồ (apostolat), sứ vụ mục vụ (pastoral), sứ vụ của các mục tử, sứ vụ của người giáo dân, sứ vụ của các nhà giáo dục, sứ vụ của các nhà hoạt động xã hội… Một điều cần lưu ý nữa liên quan đến từ “Missio”: sứ mạng, chúng ta thường thấy trên các thiệp mời của lễ truyền chức phó tế và linh mục là: lãnh nhận tác vụ phó tế, tác vụ linh mục, thiếu mất chữ “thừa”, chữ “thừa” mới cho thấy căn tính và sứ mạng của người lãnh nhận, bởi vì, đương sự không thực hiện tác vụ của chính mình, nhưng, là thi hành tác vụ do sự thừa kế, thừa hưởng, thừa hành, thừa lệnh của Đức Kitô. Do đó, đầy đủ phải là lãnh nhận thừa tác vụ phó tế, thừa tác vụ linh mục.

Đức Giêsu khi thi hành sứ mạng, Người luôn ý thức căn tính của mình là: được sai đến, không phải để làm theo ý mình, nhưng, là làm theo ý Đấng đã sai mình; Lương thực của Người là thi hành ý muốn của Chúa Cha, còn chúng ta, khi thi hành sứ mạng, dường như, chúng ta quên mất căn tính, nguồn cội của mình. Chắc, có lẽ vì thế mà, chúng ta vẫn có rất nhiều chương trình, kế hoạch truyền giáo rất hoành tráng: tốn rất nhiều công sức, và tiền của, nhưng, dường như, việc truyền giáo của chúng ta vẫn không mang lại những hoa trái tốt đẹp như lòng Chúa ước mong.

Để thi hành sứ mạng truyền giáo, chúng ta phải xác tín rằng: Động lực đầu tiên thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng là tình yêu của Ðức Giêsu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Chính tình yêu cứu độ này đã thúc bách chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu? Nếu chúng ta không cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt, để chia sẻ về tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu xin Chúa: chạm đến tâm hồn cứng cỏi của chúng ta, mở rộng cõi lòng băng giá của chúng ta, và lay động con tim thờ ơ lãnh đạm của chúng ta.

Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa với một tấm lòng rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn ta, để ta bắt gặp ánh mắt chan chứa tình yêu của Người. Trong khi thi hành sứ mạng truyền giáo, thật tốt lành biết bao khi ta đứng trước Thánh Giá, hoặc quỳ gối trước Thánh Thể, hay đơn giản chỉ là ở trong sự hiện diện của Chúa để chiêm ngắm Chúa và thầm thĩ với Người. Tốt lành biết mấy khi Người một lần nữa chạm đến cuộc đời chúng ta, và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của Người cho người khác: “Ðiều chúng tôi đã thấy, đã nghe, và đã chạm đến, chúng tôi loan báo lại cho anh em” (1Ga 1,3).

Chúng ta phải thừa nhận rằng: Động lực tốt nhất để loan báo Tin Mừng, đến từ việc chiêm niệm Tin Mừng với tình yêu mến, ước gì chúng ta biết dừng lại bên những trang Thánh Kinh và đọc Lời Chúa với cả tấm lòng. Nếu chúng ta tiếp cận Lời Chúa theo cách này, vẻ đẹp của Lời Chúa khiến chúng ta phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chúng ta hãy nhớ rằng: mình đã được ủy thác một kho tàng quý báu, kho tàng này làm cho chúng ta trở nên người hơn, giúp chúng ta sống một đời sống mới trong Chúa, và chia sẻ đời sống đó cho tất cả mọi người.

Hội Thánh là Đoàn Dân Thiên Chúa: “Xưa kia anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa” (1Pr 2,10). Chúng ta phải ý thức rằng: “Sứ mạng” là niềm say mê của Đức Giêsu, đồng thời, cũng là niềm say mê của Dân Người. Khi đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu tình yêu bừng sáng của Người: trải rộng ra, để ôm trọn tất cả Dân của Người. Bởi vì, Người chọn chúng ta từ giữa muôn dân và sai chúng ta đến với Dân của Người, cho nên, sứ mạng truyền giáo của chúng ta phải đưa chúng ta đến tận trung tâm của Dân Người. “Sứ mạng” ở giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống chúng ta, hay như một thứ đồ trang sức, mà chúng ta có thể tháo cởi; “sứ mạng” này không phải là một “vai phụ”, hay là một thời gian phụ trội trong đời sống chúng ta. Trái lại, “sứ mạng” là điều gì đó chúng ta không thể bứng ra khỏi con người của chúng ta, mà không hủy diệt chính bản thân mình. Chúng ta là “sứ mạng” trên trần gian này, đó là lý do: tại sao chúng ta có mặt ở đây, trong trời đất này.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức rằng: Chỉ một lần chúng ta tách “sứ mạng” ra khỏi cuộc sống của mình, thì ngay lập tức, tất cả mọi sự sẽ trở nên tẻ nhạt, và chúng ta sẽ đi tìm danh vọng, cùng những tham vọng ích kỷ của mình. Khi đó, chúng ta không còn là Đoàn Dân Chúa nữa. Xin cho chúng ta ý thức rằng: Qua sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người, chúng ta được đóng ấn là Đoàn Dân Chúa. Nếu chúng ta có thể giúp: ít nhất cho một người, có một cuộc sống tốt hơn, chỉ điều đó thôi, cũng đủ là hy lễ của cuộc đời chúng ta rồi. Xin cho chúng ta luôn hướng tới mục tiêu trở thành một Dân trung thành của Chúa, với “sứ mạng” mà Chúa đã trao phó cho chúng ta.


TRUYỀN GIÁO - SỨ MẠNG “LÊN ĐƯỜNG” CỦA HAI ĐỒNG TIỀN KẼM
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Đức Giêsu ngồi đối diện thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ, Người thấy bà góa nghèo đã bỏ cả tấm lòng của mình vào trong thùng dâng cúng chỉ với hai đồng tiền kẽm. Quan sát hai đồng tiền kẽm của bà góa, chúng ta phải thừa nhận rằng: đồng tiền kẽm nào cũng có lịch sử phức tạp và dài dằng dặc của nó. Trong số hai đồng tiền kẽm này: có đồng từng là mục tiêu nài xin của người ăn mày đầu phố, có đồng từng là mồ hôi nước mắt của người lao động nghèo, có đồng được đem đổi bát cháo lót lòng của kẻ đói khó, có đồng từng được mua kẹo ngọt dỗ bé em khóc nhè, có đồng từng ngủ yên bên bụng phệ phú ông, có đồng từng nhởn nhơ ẩn cư dưới đáy hố xí, có đồng lại đã kinh qua tất cả những trải nghiệm trên đây, hơn nữa, biết đâu có đồng đã từng đến tay bà góa không phải lần đầu… Hai đồng tiền kẽm: nếu biết nói, chúng sẽ thuật lại đủ mọi chuyện ngao du; nếu biết viết, chúng sẽ viết được những chuyến du hành đầy ngoạn mục, tiếc thay, chúng chỉ im thin thít, chẳng hề hé môi, chỉ âm thầm dấn thân nhập cuộc: đến, rồi đi, tùy theo người sử dụng chúng, chúng nhận được cách nhưng không, cũng cho đi cách nhưng không, không hề giữ gì lại cho mình, không bao giờ mệt mỏi tiến bước, luôn trung thành với sứ mạng “lên đường” của mình.

Chiêm ngắm hành trình “lên đường” không mệt mỏi của hai đồng tiền kẽm, chúng ta có dịp để nhìn lại sứ mạng “lên đường” của Hội Thánh. Hội Thánh của Đức Kitô là một Hội Thánh luôn luôn “lên đường”. Thánh Kinh chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa thách đố những ai tin vào Người như thế nào, và họ phải “lên đường” với lòng tin ra sao. Ông Ápraham đã nhận được lời mời gọi “lên đường” đến một vùng đất mới. Ông Môsê đã nghe tiếng Chúa gọi “lên đường” và ông đã dẫn dắt dân Chúa “lên đường” hướng về Ðất Hứa. Trong đời sống mỗi người chúng ta, lệnh truyền “lên đường” vẫn vang dội trong những hoàn cảnh mới, với những thách đố mới, và tất cả mọi thành viên của Hội Thánh đều được mời gọi tham dự vào sứ mạng “lên đường”, bởi vì, Chúa luôn mời gọi chúng ta “lên đường”, đi ra khỏi khu vực tiện nghi an toàn của mình, để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng. Lòng hăm hở “lên đường”, ra khỏi chính mình, phải luôn là động lực thôi thúc chúng ta như lời Chúa dạy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).

Đứng trước lời mời gọi “lên đường”, ước gì chúng ta đừng “nán lại”, nhưng, hãy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt mình: đi đến “các làng mạc khác”, đừng dừng lại chờ kết quả, để thụ hưởng hoa trái công khó tay mình làm ra, bởi vì, Tin Mừng, tự nó có quyền năng, mà chúng ta không thể dự đoán được, một khi đã được gieo, thì nó tự mọc lên, ngay cả khi chúng ta thức hay ngủ. Ước gì chúng ta biết trung thành noi gương Đức Giêsu “lên đường”, và coi việc “lên đường” loan báo Tin Mừng có tầm mức quan trọng sống còn đối với chúng ta. Khi thấy cỏ lùng mọc lên giữa những cây lúa, chúng ta đừng vội oán trách, nhưng hãy kiên nhẫn chờ đợi, và biết mở lòng ra để chiêm ngắm cách thế mà Lời Chúa nhập thể, trong những hoàn cảnh, cho dẫu không mấy thuận lợi.

Hội Thánh luôn có Mẹ cùng đồng hành, Mẹ luôn luôn hiện diện giữa lòng Dân Chúa. Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, nếu không có Mẹ, chúng ta không thể thật sự hiểu được tinh thần của sứ mạng lên đường truyền giáo. Có một “kiểu mẫu” Maria cho sứ mạng truyền giáo của chúng ta. Nơi Mẹ, chúng ta thấy rằng: đức khiêm nhường và lòng nhân ái không phải là những nhân đức của những người yếu đuối, nhưng, của những người mạnh mẽ, những người không cần phải ngược đãi người khác để cảm thấy mình quan trọng. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin Chúa ban cho chúng ta biết đáp lại lời mời gọi: tích cực dấn thân lên đường truyền giáo. Mẹ là người nữ của lòng tin, Mẹ sống và tiến bước trong đức tin, chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên Mẹ, để xin Mẹ phù giúp chúng ta trong hành trình truyền giáo, nhất là, vào những thời điểm khô khan, đen tối và thậm chí mệt mỏi chán chường. Mẹ đã kinh qua những “đêm tối đức tin” để tiếp cận với Ðấng Vô Hình, xin Mẹ lấy tình mẫu tử chuyển cầu cho chúng ta: trở thành muối men, thành ánh sáng cho mọi nước, mọi dân, để cùng với Mẹ, chúng ta tiến bước không ngừng trên hành trình truyền giáo.

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20 – Lm Đan Vinh

LOAN BÁO TIN MỪNG BẰNG VIỆC LÀM CHỨNG CHO CHÚA

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:

Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3. CHÚ THÍCH:

- C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

- C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).

4. HỎI ĐÁP:

- HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi?

ĐÁP:

Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:

1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?

2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.

- HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?

ĐÁP: Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được”Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.

- HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau?

ĐÁP: - Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:

Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).

Hai là chữa lành các bệnh tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)...

Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…

Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).

- Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ phép rửa tội như sau: “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỌI NGƯỜI:

Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải sống trong các túp lều ổ chuột... Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi.

Một hôm, khi đi thăm một ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà. Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.

Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.

Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giê-su đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su bằng việc nói về Chúa Giê-su, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêsa chính là một nhà truyền giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.

2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:

Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa Kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đưc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.

3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM ĐỐC HÀN QUỐC:

Có một người Hàn quốc đã sang Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tại thủ đô Hà Nội. Doanh nghiệp của ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo: Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo được cho người nào chưa?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công giáo rồi đó”.

3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều như sau:

- Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18): Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).

- Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19): Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).

- Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Ngày nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.

2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE, VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:

Nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:

- Bước một: “Hãy đứng lên và ra đi”:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê: “Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8,26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.

- Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8,27-40).

Ngày nay Hội Thánh cũng cần phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.

Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.

3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG

- Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người này lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

- Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa này cần được tiếp nối không ngừng.

- Thánh Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời những bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người cụ thể ngay ở bên mình.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”

Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-sa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức này, Giáo Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!

Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối dây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng Phục Sinh.

4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI TRUYỀN GIÁO NHƯ THẾ NÀO?:

- Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là Tình Yêu” cho tha nhân.

- Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và sống lại.

- Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20,21-22): Sứ mệnh truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi hơi ban Thần Khí cho các ông và phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần trên đầu mỗi vị (x. Cv 2,1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2,41).

- Hãy kết nghĩa với lương dân:

Năm 1983, khi thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc sẽ kết nghĩa với một gia đình lương, và mỗi người tín hữu Hàn quốc cần quyết tâm giới thiệu Chúa cho một anh chị em lương dân.

Sự kết nghĩa thiêng liêng thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho họ, năng thăm viếng giúp đỡ để gây thiện cảm và tìm dịp để giới thiệu Chúa cho họ. Chính công việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi!

Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như Chúa đã truyền dạy: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4. THẢO LUẬN:

Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ sống đức tin vào Chúa ? Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không ? (x. Lc 23,40-43).

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...

Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

SNTM Chúa nhật Truyền giáo -CN29TN -Năm B
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

CN TG b a2


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô. (Mc 16,15-20)

Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng, chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.

Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXVIII Thường Niên - Năm B
Tác giả: Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Giọng đọc: Nguyễn Trinh


Suy niệm

Có nỗi niềm thao thức nào lớn cho bằng nỗi niềm của Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, trước khi rời thế gian, nỗi thao thức đó là mong muốn con người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi đất nước dưới gầm trời này được trở về ngôi nhà chung của mình, đó là ngôi nhà hạnh phúc vĩnh cửu, ngôi nhà của bình an tuyệt đối, ngôi nhà không còn phải lo toan, vất vả, không còn nước mắt và khổ đau, không còn bệnh tật và đói nghèo, đó là Nước Trời, vì thế, trước khi rời thế gian, Con Thiên Chúa đã mời các học trò của Ngài, đặc biệt là gia đình Giáo hội, hãy tiếp nối sứ mạng của Ngài, là đem ơn cứu độ tới cho mọi người. Chúa nhật thứ hai của tháng mười được dành riêng để cầu nguyện cho việc truyền giáo của Giáo hội, đồng thời, Mẹ Giáo hội cũng kêu gọi con cái hãy chia sẻ phần nào giúp Giáo hội trong việc loan báo tin mừng.

Chứng kiến sự lầm than vì đau khổ, vì nô lệ, vì đói kém của dân chúng, tất cả đều là hậu quả của tội lỗi, tiên tri I-sa-i-a đã lên tiếng khích lệ tinh thần tôn giáo của dân chúng, ngài đã kêu gọi họ hãy vững tâm, hãy cùng sống trong sự hy vọng và kiên nhẫn của niềm tin, Thiên Chúa không bao giờ quên lãng dân Người đang vất vả trong phận người: “Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. Một tia sáng mới đang dọi chiếu trên con người, đó là dấu chỉ Thiên Chúa không quên lãng dân Ngài, Ngài luôn dõi theo từng bước chân của họ, dù họ có trung thành hay quay lưng lại với Ngài. Thiên Chúa không bao giờ là một Đấng bội tín.

Thánh Phaolô, trong lá thư gởi cho người học trò của mình là ông Ti-mô-thê, ngài luôn nhắc cho ông biết bổn phận cao quý của mình là giới thiệu về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người, đồng thời, đó cũng là sứ vụ của người môn đệ Đức Giêsu phục sinh: “Vậy tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật”. Sứ vụ của người môn đệ Đức Giêsu phục sinh là phải giới thiệu về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Thầy mình cho nhân loại, cho thế giới, luôn biết cầu nguyện và cổ võ cho việc loan báo tin mừng cứu độ, làm sao để mọi người biết đâu là sự thật đích thực, và ai là những người được cứu độ, đó là ước mong của Thiên Chúa, là khát vọng vô biên của Đấng Tạo Hóa.

Khát vọng của Con Thiên Chúa làm người đó là, đã là người sẽ được cứu độ, được gọi Thiên Chúa là Cha, vì thế, sau khi đã hoàn tất sứ vụ ở trần gian, Thiên Chúa Cha đã trọng thưởng khi đón Ngài về trời trong vinh quang, phút giây chia tay tạm biệt các học trò và cộng đoàn sơ khai, Ngài mời họ tiếp tục sứ mạng của Ngài là loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân mọi thời đại: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Dù được rước về trời nhưng Đức Giêsu vẫn hướng về nơi Ngài đã làm người, vì thế, mỗi người tín hữu, khi đáp lời mời của Ngài, ra đi loan báo tin mừng cứu độ, đều có sự hiện diện thiêng liêng của Ngài trên từng bước chân của hành trình.

Ơn cứu độ là một ân ban của Thiên Chúa trao cho con người, hơn nữa, Ngài còn mong muốn không ai đứng ngoài cộng đoàn con cái của Ngài. Thao thức của Đức Giêsu ngày xưa cũng là thao thức của Giáo hội hôm nay, mỗi ngày, Giáo hội vẫn cầu nguyện cho việc truyền giáo và mời gọi con cái hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần và Giáo hội, để việc truyền giáo thêm phần tích cực hơn. Trong hành trình truyền giáo của người tín hữu hôm nay, luôn có sự đồng hành của Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn có sự hiện diện của Giáo hội và cộng đoàn, bởi đó là một công việc của Thiên Chúa mà con người được vinh dự tham gia và cộng tác tích cực. Sứ vụ này không chỉ dành riêng cho một ai và cho một tầng lớp nào trong Giáo hội, sứ vụ này được trao cho mọi người đã được rửa tội, được gọi là con cái Giáo hội.

Nhiều người ngại rằng truyền giáo phải bắt đầu từ đâu và phải làm thế nào để truyền giáo. Ngày xưa, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã rong duỗi trên mọi nẻo đường để truyền giáo với những bài giáo lý từ Kinh thánh, ngược lại, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu chỉ giam mình trong bốn bức tường của đan viện, chỉ đóng góp vào đó những lời cầu nguyện nhỏ bé, vậy mà được chọn làm Bổn mạng các nhà truyền giáo. Mỗi người được mời gọi tham dự vào một công việc theo ý muốn của Thánh Thần, nếu biết lắng nghe và khiêm tốn thực hành theo ý định của Ngài. Và hôm nay, tôi và bạn, mỗi người được đem tới một môi trường sống khác nhau, một hoàn cảnh sống khác nhau, ở đó chúng ta có nhiều sáng kiến và điều kiện để truyền giáo.

Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô khi ghé thăm các nước châu Á, Ngài tự nhận mình là một vị tôi tớ ghé thăm mọi người trong tình thân hữu, bởi ngài biết con cái ngài đang sống trong cái nôi của các tôn giáo lớn, nơi đó dễ có những xung đột, những hiềm khích và những va chạm rất đời thường giữa mọi người, Ngài đến để an ủi những người bị tổn thương, chia sẻ với các anh chị em tôn giáo bạn đang gặp khó khăn, đồng hành cùng các bạn trẻ đang mất định hướng cuộc đời. Cũng trong chuyến hành trình đó, Ngài gặp gỡ, chia sẻ với các tôn giáo bạn để góp phần làm ấm hơn tình huynh đệ trong gia đình châu Á, giúp mọi người ý thức hơn về tương quan giữa con người với môi trường, với mẹ thiên nhiên, để cùng nhau bảo vệ và chăm sóc môi trường và thiên nhiên xinh đẹp. Và đó có phải là việc truyền giáo không các bạn, thiết nghĩ tính nhân văn Kitô giáo lúc này đây đang cần được quan tâm, và như là sợi chỉ đỏ cho việc truyền giáo của Giáo hội trong thời đại mới.

Lạy Chúa, thao thức của Chúa ngày xưa cũng là trăn trở của Mẹ Giáo hội chúng con hôm nay, xin Chúa ban Thánh Thần tình yêu cho mỗi người, để chúng con lắng nghe được tiếng nói của Ngài trong sứ vụ truyền giáo của mình. Chúa luôn đồng hành với mỗi chứng nhân truyền giáo, xin giúp chúng con vững tin hơn trong ơn gọi và sứ vụ của mình, để chúng con cố gắng bằng chính khả năng và điều kiện hiện tại, chúng con sẽ đem ơn cứu độ và niềm vui Tin mừng tới cho mọi tâm hồn, cho mỗi gia đình bên cạnh chúng con. Amen.

Bài giảng lễ Chúa Nhật Truyền Giáo -Năm B
Lm. Stephanô Nguyễn Văn Đậu


 
Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...