Hãy vượt qua những trở lực

“Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”

Chúa Nhật XXVIII – TN – B
Hãy vượt qua những trở lực

tbd 121024a


Sự sống đời đời là điều không một ai lại không ước mơ. Suốt chiều dài lịch sử nhân loại, không ít người đã muốn biến mơ ước đó thành sự thật. Đã có người dành hết cả cuộc đời mình để tìm cho được thần dược trường sinh bất tử. Người đó chính là Tần Thủy Hoàng.

Theo sử sách ghi lại: “Tần Thủy Hoàng sinh năm 259 TCN. Ông là vị vua thứ 36 của nước Tần và là người đầu tiên chấm dứt thời kỳ Chiến quốc, thống nhất Trung Quốc. Kế vị cha, ông lên ngôi vua từ năm 13 tuổi và trở thành hoàng đế ở tuổi 38.” (nguồn: internet).

Như đã nói ở trên, ông ta khao khát được trường sinh bất tử. Sự khao khát này mỗi ngày một trỗi dậy mạnh mẽ, và đó là lý do thôi thúc Tần đế bằng mọi giá phải tìm cho ra thuốc trường sinh bất tử.

Có nhiều câu chuyện về việc tìm thuốc trường sinh bất tử của Tần Thủy Hoàng được ghi lại trong sử sách cũng như được truyền khẩu. Một trong những câu chuyện được Trung Quốc lẫn Nhật Bản lưu truyền. Đó là câu chuyện pháp sư Từ Phúc vượt biển Đông tìm thuốc trường sinh bất tử cho Tần Thủy Hoàng.

Năm 219 trước công nguyên, Từ Phúc được mời vào cung của Tần Vương và tự nguyện đến ba hòn đảo tiên được ghi trong “Tiên Hải kinh” có tên là Phùng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu ở biển Đông để tìm thuốc trường sinh bất tử.

“Sau chuyến vượt biển tìm thuốc trường sinh đầu tiên không có kết quả, Từ Phúc trở về và tâu rằng, đã tìm thấy đảo Bồng Lai, nơi đây có thần tiên nắm giữ thuốc trường sinh, nhưng muốn lấy được thần dược phải có lễ vật gồm 3.000 đồng nam, đồng nữ. Từ Phúc còn yêu cầu cung cấp cho ông ta cung lớn và vũ khí để đuổi cá kình cản đường trên biển.

Tần Thủy Hoàng đã nhanh chóng đáp ứng mà không mảy may nghi ngờ. Tuy nhiên, ở chuyến đi cuối cùng, do không tìm thấy thuốc trường sinh, Từ Phúc và đoàn tùy tùng không quay trở lại và được cho là lưu lạc đến Nhật Bản. Ông ta đã xưng vương ở một vùng thảo nguyên mênh mông rộng lớn phía Đông.” (nguồn: internet).

Ước mơ có được thần dược trường sinh bất tử chỉ là mơ ước hão huyền. Từ thuở tạo thiên lập địa cho đến hôm nay, chưa có ai được trường sinh bất tử, chưa có ai có được sự sống đời đời. Trừ… chỉ trừ Đức Giê-su Ki-tô, mà thôi.

Trong những ngày còn tại thế, Đức Giê-su đã tuyên phán rằng: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết”.

Chưa hết, vào một lần khác, Đức Giê-su lớn tiếng nói, rất rõ ràng rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16).

Các sách Tin Mừng không nói đến, nhưng chúng ta có thể tin rằng, những lời tuyên phán của Ngài (nêu trên) đã chấn động khắp Palestina. Đó, đó là điều tất yếu. Tất yếu bởi được-sống-muôn-đời là một sự “hoàn hảo” cho một kiếp nhân sinh.

Hồi ấy, một người thanh niên nhận ra sự hoàn hảo này, anh ta tìm đến Đức Giê-su. Chàng thanh niên và Đức Giê-su đã có một cuộc trao đổi. Anh ta đã “trao” cho Đức Giê-su ước mơ của mình, ước mơ rằng: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giê-su có làm cho anh ta thỏa lòng? Vâng, Tin Mừng thánh Mác-cô sẽ cho chúng ta biết chi tiết của sự việc này. (Mc 10, 17-30).

**
Mở đầu câu chuyện, thánh Mác-cô cho mọi người biết, rằng: Hôm ấy, “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (x.Mc 10, 17).

Câu hỏi… câu hỏi là thế đấy. Và, nếu được phép trả lời thay cho Đức Giê-su, chúng ta sẽ trả lời ra sao!

Phải chăng, chúng ta sẽ trả lời rằng: “Này bạn, bạn đến đúng địa chỉ rồi! Ông Giê-su người Na-da-rét, người mà bạn đang quỳ-xuống-trước-mặt-Người, “Danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền; những kẻ bị quỷ ám, kinh phong bại liệt… Người đã chữa họ.” Này bạn, nghe cho rõ đây: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-dan, dân chúng (đã) lũ lượt kéo đến đi theo Người”, thế mà cớ gì hôm nay, bạn mới tìm đến ông Giê-su?

Vâng, những suy nghĩ trên đây, chỉ là những suy nghĩ nông cạn của tôi (người viết). Hôm ấy, Đức Giê-su “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa”, thế nên, Ngài đã đáp lời rằng: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.”

Trừ một mình Thiên Chúa, mà thôi! Vì… “Chúa là Ðấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” Anh có biết không?

Đức Giê-su, sau khi chấn chỉnh lại suy nghĩ của anh ta, Ngài nói: “Hẳn anh biết các điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”…

Không một chút đắn đo, anh ta trả lời rằng: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Nghe thế, Đức Giê-su không thể không “đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.

Lòng yêu mến của Đức Giê-su, không chỉ biểu lộ nơi đôi mắt, nhưng còn được thể hiện nơi đôi môi, bằng lời nói. Hôm ấy, Ngài đã nói với anh ta một điều, một điều mà anh ta còn thiếu, ngõ hầu đem lại sự hoàn thiện nơi điều anh ta đã-tuân-giữ-từ-thuở-nhỏ.
Vâng, Đức Giê-su đã nói với anh ta rằng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”

Nghe thế, anh ta phản ứng thế nào, nhỉ! Thưa, anh ta mất hết sự phấn khích của cái giây phút “quỳ mọp xuống” trước mặt Đức Giê-su. Thánh sử Mác-cô mô tả: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (x.Mc 10, 22).

***
Một ngày nọ, Đức Giê-su có lời phàn nàn rằng: “Tại sao anh em gọi Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ Mà anh em không làm điều Thầy dạy?” (Lc 6, 46).

Qua câu chuyện kể trên, lời phàn nàn của Ngài đã ứng nghiệm. Lời Chúa Giê-su đã ứng nghiệm nơi một người thanh niên giàu có. Anh ta “tuân giữ” Mười điều răn của Đức Chúa Trời từ thuở nhỏ, và đã gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành”, nghiệt ngã thay! anh ta đã không làm điều Thầy-nhân-lành dạy.

Vâng, đừng vội lên án anh ta. Nhưng hãy nhìn anh ta như một “tấm gương soi”, soi lại cuộc sống đức tin của mình. Hãy soi lại bản thân mình rằng: Đã là một tín hữu Công Giáo, tôi có tuân giữ Mười điều răn của Đức Chúa Trời?

Sao! “Tôi đã học thuộc lòng từ hồi còn nhỏ… hồi rước lễ lần đầu ư!” Vâng, có phần chắc mỗi chúng ta, ai nấy đều thuộc nằm lòng. Thuộc-nằm-lòng-từ-thuở-nhỏ.

Thế còn hôm nay, ngay bây giờ! Ngay bây giờ là ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi… và nhiều hơn nữa… Tôi có “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, sẽ thật là đáng tiếc nếu chúng ta không “kính mến Người trên hết mọi sự”. Tại sao? Thưa, không kính mến, chẳng chóng thì chầy, chúng ta sẽ “thờ quấy”, thờ “hầm bà lằng xán cấu” đủ loại thần tạp nham, đại loại như: thần tiền bạc, thần danh vọng, thần quyền lực, thần dâm bôn, thần hận thù, thần bất hòa, thần ghen tuông, thần nóng giận, thần tranh chấp, thần chia rẽ, thần bè phái v.v…

Chớ có dại nha! Thờ những loại thần tạp nham nêu trên, thánh Phao-lô khuyến cáo: “những kẻ (thờ những thần đó) sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (x.Gl 5, 20-21)/ Không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa có nghĩa là không được sự sống đời đời làm gia nghiệp, vậy đó!

Thực tế chúng ta thấy rồi. Người thanh niên giàu có trong câu chuyện nêu trên, dù đã tuân giữ mười điều răn từ thuở nhỏ, nhưng khi tới tuổi hai mươi, ba mươi (có lẽ là thế) chỉ vì không “kính mến Người trên hết mọi sự”, nên đã vấn vương bụi trần, vấn vương thần “tiền bạc”. Kết quả, chúng ta biết rồi! Anh ta không được thừa hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp.

****
Khi anh thanh niên giàu có đi rồi. Chuyện kể tiếp rằng: “Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”

Nghe thế, “các môn đệ sững sờ”. Sự sững sờ chưa kịp tan biến thì các ông lại phải lặng người đi vì xúc động khi Đức Giê-su tiếp tục cất tiếng nói: “Các con ơi, vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Sự ví von của Đức Giê-su đã làm cho các môn đệ ngộ nhận. Và rồi các ông “lẩm bẩm” nói với nhau: “Thế thì ai có thể cứu được?”

Chúng ta không thể biết được tâm trạng của các môn đệ vào thời điểm đó. Nhưng, có phần chắc, Đức Giê-su biết rõ. Biết rõ và Ngài đã “nhìn thẳng vào các ông và nói: Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể.”

Sau khi nghe Thầy Giê-su nói như thế, một tia hy vọng lóe lên trong con người ông Phê-rô. Để rồi ông đã không ngần ngại lên tiếng thưa với Đức Giê-su, rằng: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!”

Đức Giê-su hiểu ý của ông. Ngài, ngay lập tức, đáp lời rằng: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu đời sau.” (Mc 10, 29-30).

Vâng, hai ngàn năm đã trôi qua, những điều Đức Giê-su đã nói với người thanh niên giàu có, cũng như với các môn đệ, phải chăng cũng là nói với chúng ta, hôm nay? Thưa, đúng vậy. Đúng vậy, Đức Giê-su cũng đang nói với chúng ta, như thế đó.

Đức Giê-su vẫn đang mời gọi chúng ta đi theo Ngài đúng theo từng lời từng chữ mà Ngài đã nói với người thanh niên giàu có. Đức Giê-su vẫn đang mời gọi chúng ta “từ bỏ mọi của cải vật chất, từ bỏ cha, từ bỏ mẹ, từ bỏ anh chị em v.v…” để sống bậc sống tu trì, trở thành tu sĩ hay linh mục.

Tất nhiên, lời mời gọi theo kiểu này, không phải là dành cho tất cả mọi người. Không phải tất cả thành phần trong Giáo Hội đều nhận được lời mời gọi giống nhau. Và, đó là lý do để chúng ta nhận ra Đức Giê-su còn nhiều phương cách khác để mời gọi mỗi chúng ta.

Rất hợp lý khi chúng ta hiểu rằng, lời mời gọi “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi đến theo tôi” là một lời mời gọi hướng tới “những trở lực”, những trở lực có khả năng “ngăn cản” chúng ta trở thành “những môn đệ tốt lành và những thành viên nhiệt tình của Giáo Hội”. Lm. Charles E.Miller có lời giải thích như thế.

Cụ thể hóa những trở lực có khả năng ngăn cản chúng ta, Lm.Charles đã có một bản liệt kê rất rõ ràng, như sau: “Trở lực có thể là quá ích kỷ, hoặc ‘chỉ biết có mình trong hôn nhân’. Luôn thể hiện ý riêng và đạp đổ mỗi khi không ưng dạ. Trở lực có thể là ‘ưa ngồi lê đôi mách’, thích sỉ nhục người khác hoặc phao tiếng ác về họ.”

Trở lại với lời ví von của Đức Giê-su, rằng: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Vâng, theo nhóm phiên dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ thì: “Người ta đã tưởng tượng ra nhiều loại bình giải (rất dài dòng) để làm cho lời này của Chúa Giê-su ‘được dễ nghe hơn’… Hãy gác qua một bên các cách giải thích thêm mắm thêm muối đó và hãy nghe Tin Mừng: với các tông đồ, đã hiểu rõ phép tỉ dụ.”

Rất hợp lý. Và đó là lý do kho tàng Phụng Vụ của Giáo Hội không chỉ có Thánh Kinh mà còn có cả Thánh Truyền.

Riêng với Lm. Charles, ông ta đã có lời giải thích rằng: “Có Chúa Giê-su đứng trước chúng ta và cho ta câu trả lời chẳng tuyệt vời hay sao? Có lẽ thế, mà cũng có thể câu trả lời của Người sẽ gây thương tích như cây gươm hai lưỡi. Có thể ta sẽ buồn rầu bỏ đi như anh chàng giàu có ấy.”

Tuy có thể là vậy, nhưng ngài Charles đã cho mọi người một giải pháp, một giải pháp để xóa bỏ sự buồn rầu, rằng: “Nhưng trong Thánh Lễ, ơn Chúa ở cùng chúng ta, (tuy) thách thức chúng ta bằng lời Kinh Thánh, (nhưng) đồng thời củng cố sức mạnh chúng ta bằng Bí tích Thánh Thể, giúp ta chấp nhận thách thức này.”

Thế nên, đừng sa sầm nét mặt mà bỏ Chúa khi phải đón nhận thách thức. Bởi vì, muốn đến với Chúa, chúng ta phải vượt qua những thách thức. Nói, theo cách nói của Lm. Charles E.Miller, đó là: “hãy vượt qua những trở lực”.

Petrus.tran

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...