1 LỊCH SỬ GIÁO HỘI VN TRONG LÒNG DÂN TỘC Bản Tóm Tắt
LỊCH SỬ GIÁO HỘI VN
TRONG LÒNG DÂN TỘC
Bản Tóm Tắt
2018
NĂM THÁNH
TÔN VINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN 2018
TÒA GIÁM MỤC BAN MÊ THUỘT
LỜI GIỚI THIỆU
Kính thưa độc giả,
Ông Gb. Nguyễn Thái Hùng, là một nhà nghiên cứu và thành viên của ban Soạn thảo của Ban Giáo lý Giáo phận, và thân quen với nhiều người trên trang Web.
Nay nhân dịp NĂM THÁNH TÔN VINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM, ông đã hoàn thành tác phẩm nhỏ, có tính cách nghiên cứu lịch sử: “LỊCH SỬ GIÁO HỘI VIỆT NAM TRONG LÒNG DÂN TỘC”.
Ông cho chúng ta một cái nhìn đối chiếu sự kiện trong dòng lịch sử Giáo hội Công Giáo và dân tộc Việt Nam, nhất là thời Các Thánh Tử Đạo.
Lịch sử là một “Ông Thầy” giúp chúng ta nghe tiếng Chúa, để phân định cho chính xác và khôn ngoan hơn cho việc Loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay - Nghìn Năm Thứ ba.
Xin chân thành cảm ơn tác giả; và mến chúc độc giả có được niềm vui khi đọc tác phẩm này.
Ban Mê Thuột, ngày 21/10/2018
Lm Steph. Nguyễn văn Đậu
Ông Gb. Nguyễn Thái Hùng, là một nhà nghiên cứu và thành viên của ban Soạn thảo của Ban Giáo lý Giáo phận, và thân quen với nhiều người trên trang Web.
Nay nhân dịp NĂM THÁNH TÔN VINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM, ông đã hoàn thành tác phẩm nhỏ, có tính cách nghiên cứu lịch sử: “LỊCH SỬ GIÁO HỘI VIỆT NAM TRONG LÒNG DÂN TỘC”.
Ông cho chúng ta một cái nhìn đối chiếu sự kiện trong dòng lịch sử Giáo hội Công Giáo và dân tộc Việt Nam, nhất là thời Các Thánh Tử Đạo.
Lịch sử là một “Ông Thầy” giúp chúng ta nghe tiếng Chúa, để phân định cho chính xác và khôn ngoan hơn cho việc Loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay - Nghìn Năm Thứ ba.
Xin chân thành cảm ơn tác giả; và mến chúc độc giả có được niềm vui khi đọc tác phẩm này.
Ban Mê Thuột, ngày 21/10/2018
Lm Steph. Nguyễn văn Đậu
Phần I
NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VN
Thời sơ sử
2.879 TCN | vua Hùng thành lập quốc gia Văn Lang. |
258 TCN | An Dương Vương thôn tính Văn Lang, thành lập quốc gia Âu Lạc. |
Thời Bắc thuộc
Thuộc Nam Việt
207 TCN | Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, thành lập quốc gia Nam Việt. |
Thuộc Hán
111 TCN | nhà Hán thôn tính Nam Việt. |
40 | Hai Bà Trưng, Trưng Trắc. |
Thuộc Đông Ngô
229 | Tôn Quyền xưng đế, lập nước Đông Ngô. |
246 - 248 | Bà Triệu. |
Thuộc Tấn
280 | nhà Tấn thôn tính Đông Ngô. |
Thuộc Lưu Tống
420 | Lưu Dụ thành lập nhà Lưu Tống. |
Thuộc Nam Tề
479 | Tiêu Đạo Thành thành lập nhà Nam Tề. |
Thuộc Lương
502 | Tiêu Diễn thành lập nhà Lương. |
544 | Lý Bí thành lập quốc gia Vạn Xuân. |
Thuộc Tùy
602 | nhà Tùy thôn tính Vạn Xuân. |
Thuộc Đường
618 | tháng 3 Lý Uyên thành lập nhà Đường. |
713 - 723 | Mai Hắc Đế. |
Thời phong kiến độc lập
Tự chủ
905 | Khúc Thừa Dụ xây dựng chính quyền tự chủ. |
Nhà Ngô
939 | Ngô Quyền xưng vương, kinh đô Cổ Loa. |
944 - 968 | 12 sứ quân. |
Nhà Đinh
968 |
Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, thành lập quốc gia Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. |
970 |
Đinh Bộ Lĩnh cho đúc Thái Bình hưng bảo, đây là đồng tiền đầu tiên của Việt Nam. |
Nhà Tiền Lê
980 | Lê Hoàn lên ngôi vua, thành lập nhà Tiền Lê. |
Nhà Lý
1009 |
21 tháng 11 Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thành lập nhà Lý, đổi tên nước thành Đại Việt. |
1010 | Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. |
1028 | Lý Thái Tổ mất. |
1069 | Chiến tranh Việt - Chiêm. |
Nhà Trần
1226 | 10 tháng 1 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, thành lập nhà Trần. |
1396 | phát hành Thông Bảo hội sao theo chủ trương của Hồ Quý Ly, đây là tiền giấy đầu tiên của Việt Nam. |
Nhà Hồ
1400 |
Hồ Quý Ly lên ngôi, thành lập nhà Hồ, đổi tên nước thành Đại Ngu. |
Thuộc Minh
1407 | nhà Minh thôn tính Đại Ngu, đặt làm quận Giao Chỉ. |
1407 | Trần Ngỗi xưng Giản Định đế, lập nên nhà Hậu Trần. |
1413 | nhà Hậu Trần bị nhà Minh đánh bại. |
1418-1427 | Lam Sơn. |
Nhà Lê sơ
1428 | Lê Lợi thành lập quốc gia Đại Việt. |
1483 | biên soạn Luật Hồng Đức. |
Nhà Mạc
1527 | Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi, lập nhà Mạc. |
1533 | Nguyễn Kim lập Lê Ninh làm vua, tái lập nhà Lê. |
Nhà Lê trung hưng
1592 |
nhà Lê trung hưng đánh bại nhà Mạc, lên nắm quyền điều hành đất nước. |
1558 | Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. |
1771 | Tây Sơn. |
1778 |
Nguyễn Nhạc xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu Thái Đức, lập lên nhà Tây Sơn, đặt kinh đô tại Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương. |
Nhà Tây Sơn
1788 |
Nguyễn Nhạc từ bỏ đế hiệu, chỉ xưng Tây Sơn vương. |
22 tháng 12 Nguyễn Huệ xưng đế, đặt niên hiệu Quang Trung, đặt kinh đô tại Phú Xuân. |
|
1792 | Nguyễn Huệ qua đời, con trai Nguyễn Quang Toản lên ngôi. |
Nhà Nguyễn
1802 |
Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, lập lên nhà Nguyễn, đặt kinh đô tại Phú Xuân. |
1804 | Nguyễn Ánh đổi tên nước thành Việt Nam. |
1836 | Việt Nam thôn tính Chân Lạp, đặt làm Trấn Tây Thành. |
1839 | 15 tháng 2 Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam. |
1841 | rút quân khỏi Trấn Tây Thành. |
1858-1884 | Chiến tranh Pháp - Đại Nam. |
1867 | nhà Nguyễn cắt Nam Kỳ lục tỉnh nhượng cho Pháp. |
Pháp thuộc
1884 |
Hòa ước Giáp Thân, triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. |
1885-1895 | phong trào Cần Vương. |
1887 | Liên bang Đông Dương, gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Campuchia. |
1899 | Lào vào Liên bang Đông Dương. |
1906-1908 | phong trào Duy Tân. |
1945 | 25 tháng 8 Bảo Đại thoái vị. |
Tuyên ngôn Độc Lập.
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD
LỊCH SỬ VN THỜI GIÁO HỘI BẮT ĐẦU
Nhà Hậu Lê do Lê Thái Tổ lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Đại Hành lập ra cuối thế kỷ X. Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn:
* Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
* Nhà Lê trung hưng (1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê và kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.
* Nhà Lê sơ (1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
* Nhà Lê trung hưng (1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê và kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.
Miếu hiệu | Tên húy | Năm | Niên hiệu |
Thái Tổ | Lê Lợi | 1428-1433 | Thuận Thiên |
Thái Tông | Lê Nguyên Long | 1433-1442 | Thiệu Bình (1434-1439), Đại Bảo (1440-1442) |
Nhân Tông | Lê Bang Cơ | 1442-1459 | Thái Hòa (1443-1453), Diên Ninh (1454-1459) |
Lê Nghi Dân | 1459-1460 | Thiên Hưng (1459-1460) | |
Thánh Tông | Lê Tư Thành (Lê Hạo) | 1460-1497 | Quang Thuận (1460-1469), Hồng Đức (1470-1497) |
Hiến Tông | Lê Sanh (Lê Tăng) (Lê Huy) |
1497-1504 | Cảnh Thống |
Túc Tông | Lê Thuần | 1504 | Thái Trinh |
Lê Tuấn (Lê Huyên) | 1505-1509 | Thái Trinh, Đoan Khánh | |
Lê Oanh | 1510-1516 | Hồng Thuận | |
Lê Quang Trị | 1516 | ||
Chiêu Tông | Lê Y (Lê Huệ) | 1516-1522 | Quang Thiệu |
Lê Bảng | 1518-1519 | Đại Đức | |
Lê Do | 1519 | Thiên Hiến | |
Lê Xuân (Lê Lự) | 1522-1527 | Thống Nguyên |
Nhà Lê sơ tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527, kéo dài đúng 100 năm, triều đại này bị gián đoạn bởi nhà Mạc do bình chương Mạc Đăng Dung cướp ngôi và tự lập mình làm Hoàng đế, sau 6 năm được tái lập với tên gọi nhà Lê trung hưng.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_L%C3%AA_s%C6%A1
Các vua nhà Mạc
Nhà Mạc là triều đại quân chủ, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp lập con trai là Mạc Toàn lên ngôi, bị quân đội Lê - Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592 - Sau đó Mạc Toàn lên ngôi nhưng tại vị chỉ được 2 tháng, tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là gần 66 năm.
Tuy nhiên, giai đoạn sau đó hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng.
Thời kỳ 1533-1592 còn được gọi là thời kỳ Nam - Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa gây dựng lại nhà Lê từ năm 1533.
Tuy nhiên, giai đoạn sau đó hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng.
Thời kỳ 1533-1592 còn được gọi là thời kỳ Nam - Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa gây dựng lại nhà Lê từ năm 1533.
Miếu hiệu | Niên hiệu | Tên | Sinh- Mất | Trị vì |
Thái Tổ | Minh Đức | Mạc Đăng Dung | 1483?-1541 | 1527-1529 |
Thái Tông | Đại Chính | Mạc Đăng Doanh | ?-1540 | 1530-1540 |
Hiến Tông | Quảng Hòa | Mạc Phúc Hải | ?-1546 | 1541-1546 |
Tuyên Tông | Vĩnh Định (1547) Cảnh Lịch (1548-1553) Quang Bảo (1554-1561) |
Mạc Phúc Nguyên | ?-1561 | 1547-1561 |
Mục Tông hoặc Anh Tổ |
Thuần Phúc (1562-1566) Sùng Khang (1566- 578) Diên Thành (1578-1585) Đoan Thái (1586-1587) Hưng Trị (1588-1590) Hồng Ninh (1591-1592) |
Mạc Mậu Hợp | ?-1592 | 1562-1592 |
Cảnh Tông | Vũ An | Mạc Toàn | ?-1592 | 1592-1592 |
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_M%E1%BA%A1c
Nhà Lê trung hưng
1533-1789 là giai đoạn tiếp theo của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (tiếp nối nhà Lê Sơ), được thành lập sau khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là thời kỳ lãnh thổ Việt Nam được mở rộng nhiều lần nhất.
Các vua nhà Lê trung hưng
Miếu hiệu | Tên húy | Năm | Niên hiệu |
Trang Tông | Lê Duy Ninh | 1533-1548 | Nguyên Hoà |
Trung Tông | Lê Duy Huyên | 1548-1556 | Thuận Bình |
Anh Tông | Lê Duy Bang | 1556-1573 | Thiên Hựu (1557) Chính trị (1558-1571) Hồng Phúc (1572-1573) |
Thế Tông | Lê Duy Đàm | 1573-1599 | Gia Thái (1573-1577) Quang Hưng (1578-1599) |
Kính Tông | Lê Duy Tân | 1599-1619 | Thuận Đức (1600) Hoằng Định (1601-1619) |
Thần Tông (lần 1) | Lê Duy Kỳ | 1619-1643 | Vĩnh Tộ (1620-1628) Đức Long (1629-1634) Dương Hoà (1634-1643) |
Chân Tông | Lê Duy Hựu | 1643-1649 | Phúc Thái |
Thần Tông (lần 2) | Lê Duy Kỳ | 1649-1662 | Khánh Đức (1649-1652) Thịnh Đức (1653-1657) Vĩnh Thọ (1658-1661) Vạn Khánh (1662) |
Huyền Tông | Lê Duy Vũ | 1663-1671 | Cảnh Trị |
Gia Tông | Lê Duy Cối (Lê Duy Khoái) |
1672-1675 | Dương Đức (1672-1673) Đức Nguyên (1674-1675) |
Hy Tông | Lê Duy Cáp (Lê Duy Hiệp) |
1675-1705 | Vĩnh Trị (1678-1680) Chính Hoà (1680-1705) |
Dụ Tông | Lê Duy Đường | 1706-1729 | Vĩnh Thịnh (1706-1719) Bảo Thái (1720-1729) |
Lê Duy Phường | 1729-1732 | Vĩnh Khánh | |
Thuần Tông | Lê Duy Tường | 1732-1735 | Long Đức |
Ý Tông | Lê Duy Thận (Lê Duy Chấn) |
1735-1740 | Vĩnh Hựu |
Hiển Tông | Lê Duy Diêu | 1740-1786 | Cảnh Hưng |
Mẫn hoàng đế (Thụy hiệu) | Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) |
1786-1788 | Chiêu Thống |
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_L%C3%AA_trung_h%C6%B0ng
Danh sách mười một chúa Trịnh
Chúa Trịnh (1545-1787) là một vọng tộc phong kiến kiểm soát quyền lực Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng, khi nhà vua tuy không có thực quyền vẫn được duy trì ngôi vị. Bộ máy triều đình lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu. Tổng cộng có 11 đời chúa Trịnh chính thức (nếu tính luôn cả Trịnh Kiểm là 12 đời chúa) cai quản xứ Đàng Ngoài trong hơn 2 thế kỷ.
Chúa | Ở ngôi | Đời vua | Miếu hiệu | Thụy hiệu | Ghi chú |
Trịnh Kiểm | 1545-1570 (25 năm). |
Lê Trang Tông (1533-1548), Lê Trung Tông (1548-1556), Lê Anh Tông (1556-1573). |
Thế Tổ |
Minh Khang Thái vương. |
Đương thời khi cầm quyền ông không xưng là chúa nhưng được đời sau truy tôn là Minh Khang Thái vương. Do đó ông không phải là vị chúa Trịnh đầu tiên. |
Trịnh Cối | 1570 | Lê Anh Tông. | Không có | Không có | Năm 1570, đầu hàng nhà Mạc, được Mạc Kính Điển phong làm Trung Lương hầu. Sau khi chết được Lê đế xá tội, truy tặng Thái phó, tước Trung quốc công. Do đó, ông không được xem là chúa Trịnh đầu tiên. |
Bình An vương Trịnh Tùng | 1570-1623 (53 năm). |
Lê Anh Tông Lê Thế Tông (1573-1599), Lê Kính Tông (1599-1619), Lê Thần Tông (1619-1643). |
Thành Tổ |
Triết vương |
Ông là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử. |
Thanh Đô vương Trịnh Tráng | 1623-1657 (34 năm). |
Lê Chân Tông (1643-1649), Lê Thần Tông (lần 2: 1649-1662). |
Văn Tổ |
Nghị vương |
Con thứ hai của Trịnh Tùng. |
Tây Định vương Trịnh Tạc | 1657-1682 (25 năm). |
Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông (1662-1671), Lê Gia Tông (1671-1675), Lê Hy Tông (1675-1705). |
Hoằng Tổ |
Dương vương |
Con thứ hai của Trịnh Tráng. |
Định Nam vương Trịnh Căn | 1682-1709 (27 năm). |
Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông (1705-1729). |
Chiêu Tổ |
Khang vương |
Con trưởng của Trịnh Tạc. |
An Đô vương Trịnh Cương | 1709-1729 (20 năm). |
Lê Dụ Tông, Lê Đế Duy Phường (1729-1732). |
Hy Tổ |
Nhân vương |
Cháu chắt của Trịnh Căn, cháu nội của Lương Mục vương Trịnh Vịnh, con trai của Tấn Quang vương Trịnh Bính. |
Uy Nam vương Trịnh Giang | 1729-1740 (11 năm). |
Lê Đế Duy Phường, Lê Thuần Tông (1732-1735), Lê Ý Tông (1735-1740). |
Dụ Tổ |
Thuận vương |
Con trưởng của Trịnh Cương, bị ép nhường ngôi và tôn lên làm Thái thượng vương năm 1740. |
Minh Đô vương Trịnh Doanh | 1740-1767 (27 năm). |
Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông (1740-1786). |
Nghị Tổ |
Ân vương |
Con thứ của Trịnh Cương, em trai Trịnh Giang. |
Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm | 1767-1782 (15 năm). |
Lê Hiển Tông. | Thánh Tổ |
Thịnh vương |
Con trưởng của Trịnh Doanh. |
Điện Đô vương Trịnh Cán | 9-10/1782 (Một tháng.) |
Lê Hiển Tông. | Bị phế làm Cung quốc công và mất sau loạn kiêu binh 1782. Sau khi mất được ban thụy là Trung Cần. | ||
Đoan Nam vương Trịnh Tông | 10/1782-1786 (4 năm). |
Lê Hiển Tông. | Linh vương |
Con trưởng của Trịnh Sâm. | |
Án Đô vương Trịnh Bồng | 9/1786-9/1787 (Một năm). |
Lê Mẫn Đế. | Trốn mất tích sau 1787. |
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAa_Tr%E1%BB%8Bnh
Danh sách các đời chúa Nguyễn
Nguyễn Kim là người đặt nền móng cho các chúa Nguyễn sau này. Sinh thời ông không tự xưng danh chúa nhưng được con cháu chúa Nguyễn sau này tôn miếu hiệu Triệu Tổ và được phong thụy hiệu Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương như là chúa. Tuy nhiên ông không được xem là vị chúa Nguyễn đầu tiên
1. Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên hay Tiên vương (1525-1613), con út của Nguyễn Kim, xưng chúa năm 1558, có 10 con trai và hai con gái. Một người con gái lấy chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế. Ông là vị chúa Nguyễn đầu tiên.
2. Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi, Chúa Bụt hay Sãi vương (1563-1635), con trai thứ sáu của chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và bốn con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”. Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là “Phúc”. Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế.
3. Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng hay Thượng vương (1601-1648), con trai thứ hai của chúa Sãi, kế nghiệp năm 1635 vì anh trưởng chết sớm, có ba con trai và một con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế.
4. Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền hay Hiền vương (1620-1687), con trai thứ hai của chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648 vì cả anh lẫn em đều chết sớm, có sáu con trai và ba con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.
5. Nguyễn Phúc Thái tức Chúa Nghĩa hay Nghĩa vương (1650-1691), con trai thứ hai của chúa Hiền, kế nghiệp năm 1687 vì anh trưởng chết sớm, có năm con trai và năm con gái. (Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái; còn Nguyễn Phúc Trăn không có, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của chúa tức Cương quận công.) Chúa Nghĩa là người dời đô đến Huế. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế.
6. Nguyễn Phúc Chu [14] tức Chúa Minh hay Minh vương (còn gọi là Quốc chúa, chữ Hán: 國主) (1675-1725), con trai trưởng của chúa Nghĩa, kế nghiệp năm 1691, có 38 con trai và bốn con gái. Chúa Minh là người đầu tiên sai sứ sang nhà Thanh để xin phong vương nhưng không được nhận vì nhà Thanh vẫn xem vua Lê của Đàng Ngoài là vua của toàn xứ Việt lúc đó. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế.
7. Nguyễn Phúc Chú [15] tức Chúa Ninh hay Ninh vương (1697-1738), con trai trưởng của chúa Minh, kế nghiệp năm 1725, có ba con trai và sáu con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế.
8. Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vũ hay Vũ vương (1714-1765), con trai trưởng của chúa Ninh, kế nghiệp năm 1738, có 18 con trai và 12 con gái. Vì năm 1744 vào dịp tết Nguyên Đán có một cậy sung nở hoa và một lời sấm 'Bát thế hoàn trung đô' Đến lúc này chúa Trịnh đã xưng vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng gọi mình là Vũ vương vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thế Tông Hiếu Vũ hoàng đế.
9. Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định hay Định vương (1754-1777), con trai thứ 16 của Vũ vương, kế nghiệp năm 1765, không có con. Khi còn sống, Vũ vương đã có ý định cho con trai thứ chín là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Sau khi Nguyễn Phúc Hiệu chết, và con ông hãy còn quá nhỏ, Vũ vương định cho con trai thứ hai của mình là Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của vua Gia Long sau này) nối ngôi. Khi Vũ vương chết, một vị quan lớn trong triều là Trương Phúc Loan giết Nguyễn Phúc Luân và lập Nguyễn Phúc Thuần để dễ kiềm chế lúc đó mới 12 tuổi, lên ngôi. Năm 1777, ông bị nhà Tây Sơn giết khi ở tuổi 26, chưa có con nối dõi. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế.
10. Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính vương được lên ngôi chúa sau khi Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho con của anh mình. Lúc ấy chúa Nguyễn chia làm 2 phe cùng nhau cai trị: Một bên là Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) và một bên là Nguyễn Phúc Dương, Lý Tài. Năm 1777 cả hai đều bị nhà Tây Sơn tiêu diệt, riêng Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân.
1. Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên hay Tiên vương (1525-1613), con út của Nguyễn Kim, xưng chúa năm 1558, có 10 con trai và hai con gái. Một người con gái lấy chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế. Ông là vị chúa Nguyễn đầu tiên.
2. Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi, Chúa Bụt hay Sãi vương (1563-1635), con trai thứ sáu của chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và bốn con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”. Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là “Phúc”. Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế.
3. Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng hay Thượng vương (1601-1648), con trai thứ hai của chúa Sãi, kế nghiệp năm 1635 vì anh trưởng chết sớm, có ba con trai và một con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế.
4. Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền hay Hiền vương (1620-1687), con trai thứ hai của chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648 vì cả anh lẫn em đều chết sớm, có sáu con trai và ba con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.
5. Nguyễn Phúc Thái tức Chúa Nghĩa hay Nghĩa vương (1650-1691), con trai thứ hai của chúa Hiền, kế nghiệp năm 1687 vì anh trưởng chết sớm, có năm con trai và năm con gái. (Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái; còn Nguyễn Phúc Trăn không có, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của chúa tức Cương quận công.) Chúa Nghĩa là người dời đô đến Huế. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế.
6. Nguyễn Phúc Chu [14] tức Chúa Minh hay Minh vương (còn gọi là Quốc chúa, chữ Hán: 國主) (1675-1725), con trai trưởng của chúa Nghĩa, kế nghiệp năm 1691, có 38 con trai và bốn con gái. Chúa Minh là người đầu tiên sai sứ sang nhà Thanh để xin phong vương nhưng không được nhận vì nhà Thanh vẫn xem vua Lê của Đàng Ngoài là vua của toàn xứ Việt lúc đó. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế.
7. Nguyễn Phúc Chú [15] tức Chúa Ninh hay Ninh vương (1697-1738), con trai trưởng của chúa Minh, kế nghiệp năm 1725, có ba con trai và sáu con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế.
8. Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vũ hay Vũ vương (1714-1765), con trai trưởng của chúa Ninh, kế nghiệp năm 1738, có 18 con trai và 12 con gái. Vì năm 1744 vào dịp tết Nguyên Đán có một cậy sung nở hoa và một lời sấm 'Bát thế hoàn trung đô' Đến lúc này chúa Trịnh đã xưng vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng gọi mình là Vũ vương vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thế Tông Hiếu Vũ hoàng đế.
9. Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định hay Định vương (1754-1777), con trai thứ 16 của Vũ vương, kế nghiệp năm 1765, không có con. Khi còn sống, Vũ vương đã có ý định cho con trai thứ chín là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Sau khi Nguyễn Phúc Hiệu chết, và con ông hãy còn quá nhỏ, Vũ vương định cho con trai thứ hai của mình là Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của vua Gia Long sau này) nối ngôi. Khi Vũ vương chết, một vị quan lớn trong triều là Trương Phúc Loan giết Nguyễn Phúc Luân và lập Nguyễn Phúc Thuần để dễ kiềm chế lúc đó mới 12 tuổi, lên ngôi. Năm 1777, ông bị nhà Tây Sơn giết khi ở tuổi 26, chưa có con nối dõi. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế.
10. Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính vương được lên ngôi chúa sau khi Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho con của anh mình. Lúc ấy chúa Nguyễn chia làm 2 phe cùng nhau cai trị: Một bên là Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) và một bên là Nguyễn Phúc Dương, Lý Tài. Năm 1777 cả hai đều bị nhà Tây Sơn tiêu diệt, riêng Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAa_Nguy%E1%BB%85n
Danh sách các vua nhà Tây Sơn
Nhà Tây Sơn từ khi vua Thái Đức lên ngôi năm 1778 đến khi Cảnh Thịnh bị bắt năm 1802 được tất cả 24 năm, có 3 vua:
1. Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc (1778 - 1788). Từ năm 1788, ông nhường ngôi cho Nguyễn Huệ, còn mình xưng là Tây Sơn vương.
2. Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ (1788 - 1792). Mất đột ngột năm 1792, con là Quang Toản nối ngôi.
3. Cảnh Thịnh Hoàng Đế Nguyễn Quang Toản (1792 - 1802)
Nếu tính từ khi Nguyễn Nhạc khởi binh từ năm 1771 thì cộng tất cả là 31 năm.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_T%C3%A2y_S%C6%A1n
1. Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc (1778 - 1788). Từ năm 1788, ông nhường ngôi cho Nguyễn Huệ, còn mình xưng là Tây Sơn vương.
2. Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ (1788 - 1792). Mất đột ngột năm 1792, con là Quang Toản nối ngôi.
3. Cảnh Thịnh Hoàng Đế Nguyễn Quang Toản (1792 - 1802)
Nếu tính từ khi Nguyễn Nhạc khởi binh từ năm 1771 thì cộng tất cả là 31 năm.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_T%C3%A2y_S%C6%A1n
Các vua nhà Nguyễn
Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 đến khi sụp đổ 1945, nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ.
Miếu hiệu | Thụy hiệu | Tên húy | Thời gian sống | Niên hiệu Trị vì |
Thế Tổ | Cao hoàng đế (Sáng lập) |
Nguyễn Phúc Ánh. |
1762-1820 | Gia Long (1802-1820). |
Thánh Tổ |
Nhân hoàng đế | Nguyễn Phúc Đảm. |
1791-1841 | Minh Mạng (1820 - 1841). |
Hiến Tổ | Chương hoàng đế | Nguyễn Phúc Miên Tông. |
1807-1849 | Thiệu Trị (1841 - 1847). |
Dực Tông | Anh hoàng đế | Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. |
1829-1883 | Tự Đức(1847-1883). |
Cung Tông | Huệ hoàng đế | Nguyễn Phúc Ưng Chân. |
1852-1883 | Dục Đức (1883) (Dục Đức thực chất là tên nơi giam vua Cung Tông, không phải là niên hiệu của ông). |
Trang Cung Văn Lãng quận vương | Nguyễn Phúc Hồng Dật. |
1847-1883 | Hiệp Hòa (1883). | |
Giản Tông | Nghị hoàng đế | Nguyễn Phúc Ưng Đăng. |
1869-1884 | Kiến Phúc (1883-1884). |
Xuất Đế | Nguyễn Phúc Ưng Lịch. |
1872-1943 | Hàm Nghi (1884-1885). | |
Cảnh Tông | Thuần hoàng đế | Nguyễn Phúc Ưng Kỷ. |
1864-1889 | Đồng Khánh (1885-1889). |
Hoài Trạch công Phế Đế | Nguyễn Phúc Bửu Lân . |
1879-1954 | Thành Thái (1889-1907). | |
Phế Đế | Nguyễn Phúc Vĩnh San. |
1900-1945 | Duy Tân (1907 - 1916). | |
Hoằng Tông | Tuyên hoàng đế | Nguyễn Phúc Bửu Đảo. |
1885-1925 | Khải Định (1916 - 1925). |
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn. Trước khi mất, ông đã được rửa tội). | 1913-1997 | Bảo Đại (1925 - 1945). |
Thế phả nhà Nguyễn
1Gia Long 1802-1819 |
|||||||||||||
2 Minh Mạng 1820-1840 |
|||||||||||||
3 Thiệu Trị 1841-1847 |
|||||||||||||
4 Tự Đức 1847-1883 |
Thụy Thái vương | Kiên Thái vương | 6 Hiệp Hoà 1883 |
||||||||||
5 Dục Đức 1883 |
9 Đồng Khánh 1885-1889 |
8 Hàm Nghi 1884-1885 |
7 Kiến Phúc 1883-1884 |
||||||||||
10 Thành Thái 1889-1907 |
12 Khải Định 1916-1925 |
||||||||||||
11 Duy Tân 1907-1916 |
13 Bảo Đại 1926-1945 |
||||||||||||
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_ho%C3%A0ng_%C4%91%E1%BA%BF_
Mục lục
LỜI GIỚI THIỆU..
Phần I
NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VN..
Thời sơ sử..
Thời Bắc thuộc.
Thời phong kiến độc lập.
LỊCH SỬ VN THỜI GIÁO HỘI BẮT ĐẦU..
Các Hoàng đế nhà Lê sơ 1428 - 1527 (100 năm)
Các vua nhà Mạc.
Nhà Lê trung hưng.
Các vua nhà Lê trung hưng.
Danh sách mười một chúa Trịnh.
Danh sách các đời chúa Nguyễn.
Danh sách các vua nhà Tây Sơn.
Các vua nhà Nguyễn.
Phần II:
LỊCH SỬ GIÁO HỘI VN TRONG LÒNG DÂN TỘC..
Phần III
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam..
2. Giáo Hội Việt Nam..
3. Thư Công Bố Năm Thánh.
4. Kinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam..
5. Các Giáo Phận Tại Việt Nam..
6. Bản đồ Các giáo phận tại Việt Nam..
Tài liệu tham khảo:
- HĐGMVN, Niên Giám 2016
- Lm Phan Phát Huồn, CssR, Việt Nam Giáo Sử
- Lm Đào Trung Hiệu, OP, Cuộc Lữ Hành Đức Tin
- Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, Vụ Án Phong Thánh 1987
- Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, 265 Triều Đại Giáo Hoàng Trong Dòng Lịch Sử Giáo Hội
- Gs. Trần Văn Cảnh. Mừng Năm Thánh 2010, xem Lịch sử truyền
giáo Việt Nam - http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=
- Những Công nghị đầu tiên của Giáo Hội Việt nam trong thế kỷ XVII -
https://antontruongthang.com/than-h%E1%BB%
- Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Nhìn lại sứ mạng truyền giáo trong 50 năm qua và hướng đến tương lai.
- ... và Internet.
Trân trọng giới thiệu và kính mời tải về TẠI ĐÂY.
- file PDF