TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXIII Thường Niên – Năm C

“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”. (Lc 14, 22-33)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Ủy ban Giáo dân: Thường Huấn tháng 9/2025

Thứ năm - 04/09/2025 17:26 | Tác giả bài viết: Ủy ban Giáo dân |   34
Sau đây là loạt bài thường huấn dành cho giáo dân trong tháng 9/2025 do Ban Nghiên huấn của Ủy ban Giáo dân thực hiện.
Ủy ban Giáo dân: Thường Huấn tháng 9/2025

ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 9/2025


WHĐ (04/9/2025) - Sau đây là loạt bài thường huấn dành cho giáo dân trong tháng 9/2025 do Ban Nghiên huấn của Ủy ban Giáo dân thực hiện.

Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Ban Nghiên Huấn

THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 9/2025

BÀI I: GIÁO DỤC KITÔ GIÁO HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC TOÀN DIỆN

BÀI II: NGHỆ THUẬT VÀ VĂN HÓA TRONG MỤC VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

BÀI III: CHÚA THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG

BÀI IV: TÍNH TRUNG THỰC VÀ ĐÁNG TIN CẬY TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU: NUÔI DƯỠNG CÁC ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN ĐỂ LÀM CHỨNG TIN MỪNG QUA LỐI SỐNG CHÂN THẬT

 

BÀI I: GIÁO DỤC KITÔ GIÁO HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC TOÀN DIỆN

Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

 

Tháng Chín về, các em học sinh và sinh viên lại bước vào năm học mới, niên khoá 2025 - 2026. Bên cạnh đó nhiều giáo xứ cũng sẽ khai giảng niên khoá giáo lý mới, thiết tưởng mọi người nhất là các bậc phụ huynh, quý thầy cô giáo Công giáo, quý giáo lý viên và ngay cả các em học sinh, sinh viên Công giáo cần phải biết quan điểm, đường lối giáo dục của Giáo hội để có được kết quả giáo dục tốt nhất là đào tạo được những con người trưởng thành nhân cách, sống tin cậy mến vững vàng trong gia đình và xã hội ngõ hầu trở nên những con người sống có lương tâm ngay thẳng, có lòng nhân từ, biết sống có trách nhiệm hữu ích cho đời và đạt tới ơn cứu độ.

Giáo dục là vấn đề quan trọng nhất trong việc đào tạo con người. Việc đào tạo con người phải mang tính toàn diện. Mục tiêu của việc giáo dục luôn hướng con người tới sự trưởng thành và vươn tới toàn thiện theo giáo huấn của Chúa Giêsu: “Các con phải nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Do đó, sự nghiệp giáo dục phải nhắm đào tạo những con người trưởng thành biết sống đúng phẩm giá làm người và còn hơn thế nữa là làm con Thiên Chúa. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em cần phải được thụ hưởng một môi trường giáo dục tốt đẹp từ gia đình cho đến xã hội để phát triển đúng phẩm giá làm người. Điều này đòi hỏi toàn thể xã hội, các gia đình phải chú tâm vào việc phát triển công ích. Việc giáo dục không chỉ thuần túy hướng đến việc thu nạp các kiến thức khoa học nhân văn, kỹ thuật, văn hóa ... mà trước hết là nên người. Một nền giáo dục đúng đắn không nhắm mục tiêu đào tạo ra những công cụ để phục vụ cho bất cứ một định chế xã hội, một ý thức hệ hay đảng phái chính trị nhưng phải luôn tiên quyết với mục tiêu đào tạo con người, nên người, thành người, một con người trưởng thành nhân cách, biết sử dụng tự do để cộng tác và mưu cầu những ích lợi cho bản thân, gia đình và cộng đồng với tinh thần trách nhiệm thực sự. Nền giáo dục ấy phải mang tính nhân bản, dân tộc và khai phóng. Ngày nay, trong lãnh vực giáo dục tại Việt Nam đang gặp nhiều bất cập, thậm chí sai lầm khiến cho nền giáo dục rơi vào khủng hoảng, bế tắc dẫn tới hậu quả trầm trọng. Đời sống luân lý đạo đức suy đồi nơi con người và xã hội. Giới trẻ mất định hướng, sống không có lý tưởng... Sự dấn thân của Kitô hữu giáo dân vào lãnh vực giáo dục rất cần thiết. Không chỉ trong môi trường giáo dục thuần túy như tại nhà trường mà ngay chính từ gia đình, xứ đạo.

Khi trung thành bước đi trong ánh sáng Tin mừng bằng sự soi sáng cụ thể và nhất quán của giáo huấn xã hội của Giáo hội, người tín hữu giáo dân sẽ biết vận dụng tất cả năng lực, trí tuệ và công sức của mình để góp phần tích cực vào công cuộc loan báo Tin mừng, mà qua đó, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, một xã hội, mà Giáo hội theo lời dạy của Thầy Chí Thánh luôn nỗ lực rao giảng và kiến tạo Nước Trời giữa lòng trần thế. Trong xã hội ấy, phẩm giá con người luôn được tôn trọng và được phát triển ở mức cao nhất, quyền con người được nhìn nhận và phát huy mạnh mẽ để tất cả biết cống hiến vì một cộng đồng nhân ái, thịnh vượng và phát triển. Và người ta thực sự biết sống cho nhau, vì nhau và với nhau. Chính vì thế, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khi huấn từ cho các Đức Giám mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina ngày 27/ 06/ 2009 đã nhắn nhủ tín hữu Việt Nam: “ Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quí trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng: là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt.” Hiện nay xem ra người ta thích tranh cãi với nhau thế nào là người Công giáo tốt, thế nào là người công dân tốt để rồi đưa ra vấn nạn về sự xung khắc, xung đột giữa việc sống đạo và việc thực thi nghĩa vụ hay quyền công dân để biện minh cho việc không dám sống Tin mừng hay tìm cách bóp méo ý tưởng của Đức Giáo hoàng phục vụ cho mưu đồ ích lợi riêng. Điều đó làm cho người ta quên đi rằng dù là người Công giáo tốt hay công dân tốt, tất cả là hoa quả của việc chính tự thân mỗi người phải rèn luyện, tu dưỡng bản thân có được lòng yêu thương bao dung biết sống vì người khác, có lương tâm trong sạch, biết sống trung thực và luôn sẵn lòng hy sinh phục vụ vì ích lợi chung. Ở đây, lời nhắn nhủ của Đức Giáo hoàng là muốn nhấn mạnh đến việc tu dưỡng rèn luyện bản thân: “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quí trọng công ích,” không có vế này đi trước, làm trước thì không thể có vế sau: “Anh chị em phải chứng tỏ rằng: là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt.” Vế trước là tiền đề để chứng minh cho vế sau; vế trước là nền tảng để đạt tới vế sau. Việc làm chứng của tín hữu giáo dân được phát sinh từ ân huệ Chúa ban, được công nhận, nuôi dưỡng và dẫn tới sự trưởng thành.[1]

Như thế, theo đường lối của Giáo hội Công giáo thì giáo dục phải nhắm mục tiêu đào tạo con người cách toàn diện để có những con người trưởng thành nhân cách, trưởng thành trong đời sống tâm linh. Vì mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân Nước Trời.[2]

Hồi Tâm

1) Trong việc giáo dục con cái, anh chị em quan tâm điều gì? Nhân bản, kiến thức, học vị …?

2) Anh chị em có quan tâm giáo dục đức tin cho con cái không?

3) Trong đời sống gia đình giáo dục con cái, anh chị em có bận tâm đến điều gì nhất? Nghề nghiệp, đức tin, kỹ năng sống hay những điều khác?

------------------------

 

BÀI II: NGHỆ THUẬT VÀ VĂN HÓA TRONG MỤC VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Loan báo Tin mừng là loan báo về niềm vui tuôn trào từ một tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô, người Con dấu ái của Ngài. Vì thế, loan báo Tin mừng không chỉ là truyền đạt một thông điệp, nhưng còn là thiết lập một cuộc đối thoại sống động giữa đức tin và cuộc sống của con người. Một cuộc đối thoại cần thiết không thể thiếu được chính là đối thoại với nghệ thuật và văn hóa trong việc loan báo Tin mừng. Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã chia sẻ: “Có lẽ anh chị em đã một lần nào đó đứng trước một tác phẩm điêu khắc, một bức tranh, một vài câu thơ, của một áng văn, hay một bài hát, và kinh nghiệm một cảm xúc sâu xa, một cảm giác hân hoan, được cảm nhận một cách rõ ràng rằng trước mặt anh chị em không phải chỉ có vật chất, một khối đá cẩm thạch hoặc một khối đồng, một bức tranh vẽ, một tổ hợp các chữ cái hoặc một sự kết hợp của âm thanh, nhưng một điều gì đó lớn hơn, điều gì “nói được”, có khả năng chạm vào tâm hồn, để truyền thông một sứ điệp, để nâng linh hồn lên”[3]. Và ngài nhấn mạnh, nghệ thuật được gọi con đường của cái đẹp là một trong những con đường có thể dẫn đến Thiên Chúa và giúp chúng ta gặp gỡ được Ngài[4].

Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XIII đã nói với cộng đồng dân Chúa: “Chúng tôi muốn cám ơn những người nam nữ dấn thân trong một biểu thức khác của thiên tài con người, đó là nghệ thuật dưới những hình thức khác nhau, từ những hình thức cổ nhất cho đến những hình thức mới nhất. Chúng tôi nhìn nhận trong các tác phẩm nghệ thuật của họ có một con đường đầy ý nghĩa biểu lộ linh đạo trong lúc họ cố gắng thể hiện sự thu hút của con người đối với thẩm mỹ. Chúng tôi biết ơn, khi các nghệ sĩ, qua các tác phẩm mỹ thuật của họ, diễn tả vẻ đẹp của Tôn nhan Chúa và của các thụ tạo của Chúa. Con đường mỹ thuật là một con đường đặc biệt hữu hiệu trong công trình Tân Phúc âm hóa.”[5]

Như thế, việc đối thoại với nghệ thuật và văn hóa cũng là điều cần thiết trong công việc loan báo Tin mừng. Thánh bộ Giáo lý Đức tin đã đưa ra chỉ dẫn mục vụ cho năm Đức tin 2012 như sau: “Thế giới ngày nay nhạy bén về mối quan hệ giữa đức tin và nghệ thuật. Do đó đề nghị các Hội đồng Giám mục vận dụng thích hợp nguồn di sản nghệ thuật tại địa phương thuộc trách nhiệm mục vụ của mình, đồng thời với sự hợp tác đại kết, để hướng vào việc giảng dạy giáo lý”[6].

1/ Vai trò của văn hoá trong việc loan báo Tin mừng

Văn hoá là môi trường sống của con người, vì thế đây cũng là môi trường để Lời Chúa được gieo vãi, và nơi chốn để Tin mừng được loan báo. Công đồng Vaticanô II đã minh định: “Giữa sứ điệp cứu độ và văn hóa nhân loại có nhiều mối liên hệ. Thật vậy, khi tự mạc khải cùng dân Ngài cho tới khi tỏ mình đầy đủ trong Chúa Con nhập thể, Thiên Chúa đã nói theo văn hóa riêng của từng thời đại” (GS số 58). Vì thế, Giáo hội đã sử dụng tài nguyên của các nền văn hóa khác biệt để phổ biến và giải thích cho muôn dân sứ điệp của Chúa Kitô trong khi rao giảng, để khám phá và thấu hiểu sâu xa hơn, để diễn tả sứ điệp ấy cách tốt đẹp hơn trong các lễ nghi phụng vụ và trong cuộc sống đa dạng của cộng đồng các tín hữu” (GS số 58).

Tuy nhiên văn hóa không là một thực thể khô cứng thuộc về quá khứ, nhưng đó là một thực tại sống động sản sinh từ những sinh hoạt của cuộc sống trong các lãnh vực vật chất như nhà cửa, xe cộ, các phương tiện; cũng như phi vật chất như ngôn ngữ, tư tưởng…. Như vậy, văn hóa không chỉ là sản phẩm của lịch sử mà còn là phương tiện để con người phát triển và hoàn thiện bản thân, Công đồng Vaticanô II đã đưa ra khái niệm tổng quát: văn hóa bao gồm “tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; để cố gắng chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; để làm cho đời sống xã hội, cả trong gia đình cũng như nơi cộng đồng chính trị, trở thành nhân đạo hơn, nhờ vào sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau cùng, để diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn” (GS số 53). Vì thế, “cần phải Phúc âm hóa văn hóa và những nền văn hóa của con người, nghĩa là đi từ con người và lại quy về những tương quan giữa con người với người và con người với Thiên Chúa. Như thế Phúc âm hóa các nền văn hóa phải được thực hiện một cách sống động sâu xa cho tới tận gốc rễ, chứ không theo một cách trang trí như lớp sơn bóng ngoài mặt”[7]. Cho nên, việc Phúc âm hóa văn hóa cần được cụ thể hóa qua ngôn ngữ, biểu tượng, phong tục và cách cảm nhận riêng của từng nển văn hóa. Điều đó được thực hiện qua con đường hội nhập văn hóa, điều mà Chúa Giêsu đã thực hiện khi Người nhập thể vào lịch sử nhân loại. Thánh Giáo hoàng Giaon Phaolo II đã minh định: “Việc nhập thể của Ngôi Lời cũng là một sự nhập thể văn hóa”[8]. Dĩ nhiên, con đường loan báo Tin mừng để đức tin hội nhập vào văn hóa không là chuyện đơn giản, vì đây không phải là con đường đem văn hóa Kitô giáo thay thế cho văn hóa địa phương, nhưng là con đường đến gặp gỡ, đối thoại với các nền văn hóa và làm cho các nền văn hóa này khám phá ra chân lý, điều mà mọi người đều phải tìm kiếm, “nhất là những chân lý liên quan tới Thiên Chúa và Giáo hội của Ngài, và khi đã nhận biết, phải tin nhận và tuân giữ”[9] bởi “Thiên Chúa cho con người được tham dự vào lề luật của Ngài, để nhờ sự an bài ưu ái của ơn quan phòng, con người ngày càng có thể nhận biết sâu sắc hơn về chân lý vĩnh hằng. Vì thế, mỗi người đều có bổn phận, và do đó có quyền tìm kiếm chân lý trong lãnh vực tôn giáo, nhờ vậy có thể dùng những phương tiện thích đáng để khôn ngoan tìm thấy những phán đoán đúng đắn và chân thật theo lương tâm”[10].

Trong thời đại hôm nay, văn hóa không chỉ là sản phẩm của thời đại, mà còn là môi trường sống, nơi con người hình thành căn tính, giá trị và lối sống. Một số đặc điểm nổi bật của văn hóa hiện nay bao gồm: đề cao chủ nghĩa tương đối: không có chân lý tuyệt đối, mọi sự chỉ tương đối và cá nhân chủ nghĩa coi niềm tin tôn giáo chỉ là ý kiến cá nhân; kỷ nguyên của kỹ thuật số và truyền thông xã hội: thời đại bùng nổ thông tin, mọi sự kiện xảy ra được loan truyền nhanh đến chóng mặt, nhưng cũng hình thành một nền văn hóa “phông bạt”, khoe mình, phổ biến một lối sống sang chảnh và rồi dẫn đến đời sống đức tin hời hợt; truy nhiên giữa một thế giới vật chất vẫn còn có những con người khát khao sâu thẳm về chân lý, tình yêu và ơn cứu độ.

Trước nền văn hóa như thế, chúng ta còn được mời gọi khám phá niềm hy vọng đã được gieo vãi trong đó, và coi những hiện tượng văn hóa này là những dấu chỉ của thời đại mà Chúa ban cho chúng ta. Như Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Lúc nào Giáo hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy.” (GS số 4). Đức Thánh cha Phanxicô cũng khẳng định: “Những dấu chỉ của thời đại, trong đó có nỗi khát vọng của tâm hồn con người, vốn cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, đòi phải được biến đổi thành những dấu chỉ của niềm hy vọng”[11].

Chúng ta được mời gọi khơi dậy niềm hy vọng trong những dấu chỉ thời đại đó qua con đường đối thoại qua việc khiêm tốn lắng nghe để đọc được những thao thức, những băn khoăn, âu lo và cả những nỗi khổ đau mà con người đang đối diện. Trên con đường đối thoại, đề nghị chúng ta phải sáng tạo trong cách truyền đạt, chúng ta sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và phương tiện truyền thông phù hợp với con người hôm nay, để Tin mừng không tách rời khỏi văn hóa, nhưng thấm nhập và chuyển hóa nó từ bên trong qua chứng tá đời sống, qua việc sử dụng nghệ thuật, âm nhạc và truyền thông, để truyền tải vẻ đẹp của Tin mừng bằng phim ảnh, mạng xã hội, v.v……

2/ Nghệ thuật trong việc loan báo Tin mừng

Nghệ thuật là ngôn ngữ diễn tả cái đẹp, con đường dẫn tới gặp gỡ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có thể nói nghệ thuật là con đường giúp con người tiếp nối công trình sáng tạo của Thiên Chúa, góp phần diễn đạt chân thiện mỹ, nghệ thuật còn “là chìa khóa mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi mời ta vươn lên cao. Đó cũng là tiếng nói mời gọi ta cảm nếm cuộc sống và mơ về tương lai. Chính vì thế, cái đẹp của thụ tạo không bao giờ có thể làm ta cảm thấy thoả mãn hoàn toàn. Nó khơi dậy nỗi nhớ nhung thầm kín về Thiên Chúa, một sự thật mà chỉ có người mê say cái đẹp như Thánh Augustino mới diễn tả được một cách tuyệt vời như sau: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới; con yêu Chúa quá muộn màng” [12]. Đức Bênêđictô XVI trong Tông huấn Sacramentum Caritatis đã nói: “Thiên Chúa tự để cho mình được nhìn thấy trước trong thụ tạo, trong cái đẹp và sự hài hoà của vũ trụ”[13] . Đặc biệt chính trong Phụng vụ chúng ta “chiêm ngắm vẻ đẹp và sự sáng ngời tại chính nguồn cội của nó. Đây không chỉ thuộc về thẩm mỹ học, nhưng còn là cách thế cụ thể trong đó sự thật về tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô gặp gỡ chúng ta, lôi cuốn chúng ta và làm chúng ta say mê, giúp chúng ta vượt thoát khỏi chính mình và hướng chúng ta về ơn gọi đích thực của chúng ta, là tình yêu”[14].

Chúng ta không chỉ dừng lại trong việc chiêm ngưỡng cái đẹp của Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn phải loan truyền vẻ đẹp đó đến cho mọi người, hay nói cách khác, chúng ta hãy dùng nghệ thuật để chuyển tải vẻ đẹp sâu nhiệm của Thiên Chúa đến cho nhân loại, bởi “mọi trực giác nghệ thuật chính hiệu đều vượt xa những gì giác quan nhận biết và một khi đã lọt được tới cái nằm đằng sau bộ mặt của thực tại, nó sẽ cố gắng giải thích mầu nhiệm kín ẩn của thực tại ấy. Bản thân trực giác này cũng nảy sinh từ nơi thẳm sâu của linh hồn con người, nơi đó ta gặp thấy con người đang khát khao tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời của mình, đồng thời thoáng thấy vẻ đẹp cũng như sự thống nhất diệu kỳ của mọi sự”[15]. Đức Thánh cha Bênêđictô XVI cũng minh định: “Cái đẹp, như một con đường dẫn đến mầu nhiệm, là một lời mời gọi mở lòng con người ra với sự thật sâu xa.”[16]

Vì thế, trong công cuộc loan báo Tin mừng, chúng ta không thể bỏ quên vai trò của nghệ thuật trong việc loan báo, bởi “mọi hình thức nghệ thuật chân chính, theo cách riêng của nó, đều là đường dẫn ta đến với thực tại sâu thẳm của con người và thế giới. Bởi vậy, đó chính là một phương cách rất hiệu quả giúp ta đến với thế giới đức tin, cho kinh nghiệm sống của con người có được ý nghĩa cuối cùng của nó. Đó chính là lý do giải thích tại sao chân lý trọn vẹn của Tin mừng ngay từ đầu đã có sức khơi dậy sự quan tâm thích thú của các nghệ sĩ, những người do bản tính tự nhiên vốn rất nhanh nhạy trước các sự “hiển lộ” của cái đẹp bên trong các sự vật”[17].

Có thể nói, nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính sinh động, hấp dẫn trong việc loan báo Tin mừng, nó mang lại một âm hưởng đụng chạm tới cõi thâm sâu của tâm hồn, bởi “nghệ thuật làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn và lôi cuốn”[18]. Vì thế trong công cuộc loan báo Tin mừng, theo Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hội cần đến:

- Những người có thể làm công tác nghệ thuật trong lãnh vực văn chương và tạo hình, dùng được những khả năng vô tận của các hình ảnh và sức mạnh biểu tượng của chúng. Chính Đức Kitô cũng đã sử dụng rất nhiều hình ảnh trong các bài giảng của Người, cho theo kịp với ước nguyện của Người là trở thành hình tượng của Thiên Chúa vô hình, qua mầu nhiệm Nhập Thể.

- Giáo hội cũng cần các nhạc sĩ. Biết bao tác phẩm linh thiêng đã được sáng tác qua nhiều thế kỷ do những người có cảm thức sâu sắc về mầu nhiệm! Lòng tin của biết bao tín hữu đã được nuôi dưỡng nhờ những giai điệu xuất phát từ tâm hồn các tín hữu khác... Qua các bài hát, người tín hữu nghiệm thấy lòng tin của mình lúc thì tưng bừng vui tươi, khi dào dạt yêu thương hay tin tưởng đợi chờ Thiên Chúa ra tay cứu độ.

- Giáo hội cũng cần các nhà kiến trúc, vì Giáo hội cần có những không gian cho dân Chúa tụ họp và cử hành các mầu nhiệm cứu độ[19].

Vì thế, ý thức được vai trò quan trọng của nghệ thuật trong việc loan báo Tin mừng, Chúng ta cần quan tâm đến mỹ thuật như tranh ảnh Kinh Thánh, âm nhạc, kịch và phim ảnh, văn chương, thi ca, nghệ thuật số, và để có thể phát huy những hình thức nghệ thuật này trở thành phương thế loan báo Tin mừng cách hiệu quả, chúng ta cần:

- Tổ chức những không gian để nghệ sĩ sáng tác và trình diễn nghệ thuật Kitô giáo.

- Giáo dục thẩm mỹ và nghệ thuật trong giáo lý và mục vụ, giúp giáo dân biết cảm nhận và loan báo đức tin qua cái đẹp.

- Sử dụng các hình thức nghệ thuật hiện đại như phim ảnh, thiết kế, sân khấu, nhạc trẻ để diễn đạt Tin mừng một cách gần gũi và cảm động.

Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Gaudium et Spes đã nói: “Văn chương và nghệ thuật, theo cách thức riêng của mình, cũng có một vai trò quan trọng trong đời sống Giáo hội” (GS số 62). Vì thế “Giáo hội cũng nên công nhận những hình thức nghệ thuật mới, thích hợp với thời đại chúng ta, tùy theo bản chất của từng dân tộc, từng địa phương. Cũng nên đưa những hình thức nghệ thuật này vào nơi phượng tự, theo lối diễn đạt thích nghi và phù hợp với phụng vụ, để giúp con người nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa” (GS số 62). Do đó, “các tín hữu phải sống liên kết hết sức chặt chẽ với những người đương thời, và để tâm tìm hiểu tường tận lối suy tư và cảm nghĩ đã được diễn tả qua những tinh hoa văn hóa” (GS số 62), để kiến tạo một cuộc đối thoại với văn hóa và nghệ thuật hầu làm cho Tin mừng được nhận biết trong niềm vui và đạt tới ý nghĩa thâm sâu về “cái đẹp” mà Tin mừng nói đến. Nhìn vào lịch sử Giáo hội, ngay trong thời gian đêm tối nhất, “Giáo hội vẫn không ngừng khuyến khích các hình thức sáng tạo nghệ thuật khác nhau. Quả thật, Giáo hội luôn tìm cách làm cho chân lý mình tuyên xưng trở nên dễ tiếp cận, ngay cả đối với những người không biết đọc, nhờ các tác phẩm nghệ thuật – vốn như một loại ‘Tin mừng bằng hình ảnh.’”[20]

Tin mừng không chỉ là lời mang lại sức sống qua việc đánh thức con tim, thúc đẩy hoán cải tâm hồn, nhưng còn là lời diễn tả vẻ đẹp của Thiên Chúa nơi chính con người Đức Giêsu Kitô, bởi chính Người “phản ảnh vinh quang của Thiên Chúa” (Dt 1,3). Hơn nữa Tin mừng còn là lời diễn tả vẻ đẹp qua sự thật, tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày qua con người của Chúa Giêsu. Vì thế việc loan báo Tin mừng phải thông truyền vẻ đẹp, sức hấp dẫn của Thiên Chúa qua văn hóa và nghệ thuật theo môi trường sống của từng vùng miền, để Tin mừng được khám phá trong mọi ngóc nghách của cuộc sống. Đức Phanxicô đã minh định: “Loan báo Đức Kitô có nghĩa là tin vào Người và theo Người không những chỉ như một điều gì thực tế và đúng, mà còn như một điều gì đẹp đẽ, có khả năng đổ đầy đời sống bằng một sự huy hoàng mới và một niềm vui sâu thẳm, ngay cả giữa những thử thách. Theo quan điểm này, tất cả các cách diễn tả về thẩm mỹ thực sự có thể được công nhận là một con đường giúp người ta gặp gỡ Chúa Giêsu.”[21]

BÀI III: CHÚA THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG

Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi Ki-tô hữu đều là môn đệ truyền giáo (x. EG, 120)

Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, SJ.

Loan báo Tin mừng không chỉ là một trong nhiều hoạt động của Giáo hội, nhưng chính làhơi thở và căn tính của Giáo hội, bởi từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà Giáo hội được khai sinh (x. AG, 2). Chính vì thế, Giáo hội không thể sống khép kín, nhưng luôn được thôi thúc ra đi gặp gỡ và đưa dẫn con người đến gặp gỡ Đức Kitô. Sứ mạng ấy chỉ có thể được thực hiện trong quyền năng của Thánh Thần – Đấng đã biến đổicác Tông đồ từ chỗ sợ hãi thành những chứng nhân can đảm trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,4.11), và tiếp tục canh tân Giáo hội qua mọi thời đại. Như Đức Bênêđictô XVI xác quyết: “Không có Thánh Thần, Giáo hội sẽ trở thành một tổ chức nhân loại” (2008); mọi sáng kiến truyền giáo chỉ có sức sống đích thực khi bắt nguồn từ Chúa Thánh Thần. Chính trong ánh sáng ấy, lời khẳng định của Đức Phanxicô tiếp tục vang vọng rằng: “Mọi Kitô hữu đều là môn đệ truyền giáo” (EG, 120), để nhắc nhớ rằng loan báo Tin mừng không phải là đặc ân của một số ít người, nhưng là ơn gọi và trách nhiệm chung của toàn thể Dân Chúa. Nhờ sự hướng dẫn và thúc đẩy của Thánh Thần, mỗi tín hữu – trong gia đình, giữa xã hội, nơi học đường hay môi trường lao động – đều được mời gọi trở thành chứng nhân sống động của Tin mừng, gieo rắc niềm hy vọng và tình yêu của Đức Kitô cho thế giới hôm nay.

1/ Loan báo Tin mừng bằng đời sống chứng tá

Gia đình là Hội Thánh tại giaGia đình chính là nơi đầu tiên và căn bản để sống và truyền đạt đức tin. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi gia đình Kitô hữu là “Hội Thánh tại gia” (FC, 49). Trong gia đình, cha mẹ là những nhà truyền giáo đầu tiên, gieo hạt giống Tin mừng cho con cái. Thánh Phaolô đã nhắc đến gương bà Loidê và bà Êvnikê, những người đã lưutruyền đức tin cho Timôthê (2Tm 1,5). Chăm sóc gia đình như chiếc nôi truyền giáo của tương lai. Qua đó, chứng tá hằng ngày trong đời sống hôn nhân và tình phụ tử – mẫu tử, gia đình trở thành ánh sáng Tin mừng lan tỏa giữa xã hội.

Chứng tá bác ái và công bằng xã hộiLoan báo Tin mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng cònbằng hành động cụ thể của tình yêu và công lý. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Đức Phanxicô cũng nhấn mạnh: “Chúng ta không thể loan báo Tin mừng mà lại làm ngơ trước tiếng kêu của người nghèo” (EG, 198). Khi giáo dân sống tinh thần công bằng, bảo vệ sự sống, chăm sóc người yếu thế, họ đang trở nênnhững nhà truyền giáo thực sự quachứng tá đời thường.

Truyền giáo qua đối thoại và hiệp thôngTrong một thế giới đa văn hóa và đa tôn giáo, loan báo Tin mừng phải đi đôi với đối thoại và hiệp thông. Đức Gioan Phaolô II khẳng định rằng: “Đối thoại là một con đường mới của truyền giáo” (RM, 55). Đối thoại không phải là thái độ thỏa hiệp, nhưng là cách diễn tả Tin mừng bằng tình yêu và sự tôn trọng. Thánh Phaolô cũng khuyên: “Hãy sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12,18). Chính những cuộc đối thoại huynh đệ có thể mở ra những nhịp cầu để Tin mừng được đón nhận cáchtự do và chân thành.

2/ Sống sứ mạng trong Thánh Thần: Ba động lực cốt lõi

Cầu nguyện trong Thánh ThầnCầu nguyện là nền tảng của mọi sứ mạng truyền giáo, bởi vì nhờ đó người tín hữu gắn bó mật thiết với Chúa và nhận được sức mạnh của Thánh Thần. Thánh Phaolô dạy: “Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8,26). Cầu nguyện là con đường để từng người môn đệ Chúa Giêsu học biết lắng nghe Thánh Thần. Không có cầu nguyện, sứ mạng dễ gặp nguy cơ trở thành hoạt động xã hội trống rỗng.

Hiệp thông trong Thánh ThầnSứ mạng loan báo không phải là công việc cá nhân, nhưng là hoa trái của sự hiệp thông. Thánh Phaolô viết: “Tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần để trở thành một thân thể” (1Cr 12,13). Nhờ hiệp thông, từng thành phần Dân Chúa cùng nhau chia sẻ trách nhiệm truyền giáo, để toàn thể Giáo hội trở thành chứng tá sống động về tình hiệp nhất trong Thánh Thần.

Dấn thân trong Thánh ThầnSứ mạng loan Tin mừngbáo đòi hỏi sự dấn thân cụ thể trong đời sống xã hội và văn hóa. Đức tin không thể tách rời khỏi hành động: “Đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Loan báo Tin mừng luôn gắn liền với việc phục vụ công lý và hòa bình” (EG, 183). Nhờ sức mạnh Thánh Thần, người môn đệ Chúa Giêsu được mời gọi biến đổi môi trường sinh sống và làm việc thành nơi Tin mừng được rắcgieo và trổsinh hoa trái.

3/ Bước đường của giáo dân hôm nay

Đào luyện phân định trong Thánh Thần“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10,27). Để sống sứ mạng, các tín hữu nói chung và giáo dân nói riêng cần được đào luyện về khả năng phân định, một ơn căn bản của Thánh Thần. Đức Phanxicô dạy: “Sự phân định… là hồng ân cần thiết của Thánh Thần cho Giáo hội” (CV, 280). Phân định để lắng nghe tiếng Chúa qua Thánh kinh, hoàn cảnh sốngvà tiếng kêu của người nghèo. Phân định giúp giáo dân không bị cuốn vào những hoạt động bề ngoài, nhưng tìm thấy con đường loan báo phù hợp với ơn gọi riêng.

Xây dựng cộng đoàn hiệp hành“Anh em hãy khuyên bảo nhau và xây dựng cho nhau” (1Tx 5,11). Giáo dân cần sống trong những cộng đoàn nhỏ hiệp thông để nâng đỡ nhau trong sứ mạng. Đức Phanxicô nói: “Một Hội Thánh hiệp hành là Hội Thánh lắng nghe… nơi mọi người đều có điều gì đó để học hỏi” (2015). Cộng đoàn hiệp hành là nơi giáo dân học cách sống đồng trách nhiệm và cùng nhau thực hiện sứ mạng loan báo Tin mừng.

Sáng tạo mục vụ và truyền giáo mới“Loan báo Tin mừng bằng những con đường mới cho một thế giới mới” (RM, 3). Trong một thế giới luôn thay đổi, loan báo Tin mừng đòi hỏi sự sáng tạo. Đức Phanxicô mời gọi sử dụng truyền thông kỹ thuật số để tiếp cận các vùng ngoại vi (x. CV, 86). Với sự gần gũi đời thường và khả năng sáng tạo, giáo dân chính là nguồnlực chủ chốt để mở ra những cánh cửa mới cho Tin mừng hôm nay.

Tóm lại, Chúa Thánh Thần chính là linh hồn và sức sống của sứ mạng loan báo Tin mừng: không có Ngài, Giáo hội dễ trở thành một cơ cấu trống rỗng, nhưng nhờ Ngài, Hội Thánh luôn tươi mới, hiệp hành và tràn đầy nhiệt huyết truyền giáo. Chính Thánh Thần biến đổi mọi tín hữu – từ giáo sĩ đến giáo dân – để trở nên “men Tin mừng” giữa lòng nhân loại, thắp sáng niềm hy vọng trong thế giới đầy bất ổn.

Hồi tâm

1) Trong đời sống cá nhân và gia đình, tôi để Chúa Thánh Thần hướng dẫn thế nào để trở thành “men Tin mừng” giữa môi trường sống của mình? Tôi có dám can đảm làm chứng cho niềm tin và niềm hy vọng ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn không?

2) Trong cộng đoàn giáo xứ, tôiđể cho Thánh Thần thôi thúc ra đi loan báo Tin mừng bằng tình huynh đệ, đối thoại và phục vụ như thế nào? Có điều gì đang cản trở tôisống hiệp hành và chia sẻ trách nhiệm loan báo Tin mừng?

3) Tôi được mời gọi sáng tạo thế nào trong việc sống và loan báo Tin mừng hôm nay? Tôi xinChúa Thánh Thần ban ơn phân định thế nào, để chọn lựa những việc làm cụ thể góp phần xây dựng giáo xứ thành một cộng đoàn hiệp hành và loan báo Tin mừng?

 

BÀI IV: TÍNH TRUNG THỰC VÀ ĐÁNG TIN CẬY TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU: NUÔI DƯỠNG CÁC ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN ĐỂ LÀM CHỨNG TIN MỪNG QUA LỐI SỐNG CHÂN THẬT

Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn

“Làm tông đồ trong môi trường xã hội là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần não trạng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống: đó là bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân mà không ai có thể làm thay họ cách đầy đủ… Người giáo dân chu toàn sứ mệnh này của Giáo hội nơi trần gian: trước tiên bằng đời sống hòa hợp với đức tin, để nhờ đó họ trở thành ánh sáng thế gian; bằng đời sống lương thiện trong bất cứ công ăn việc làm nào để làm cho mọi người yêu mến sự thật, sự thiện và cuối cùng đưa họ tới Chúa Kitô và Hội Thánh” . Như vậy, việc nuôi dưỡng các đức tính nhân bản để làm chứng cho Tin mừng qua lối sống chân thật không chỉ là một lời mời gọi đạo đức cá nhân, mà còn là một sứ mạng loan báo Tin mừng sống động trong xã hội hôm nay.

Các đức tính nhân bản là những phẩm chất đạo đức giúp người tín hữu sống tốt lành, hướng thiện và phản ánh hình ảnh Thiên Chúa.

Có một số đức tính căn bản như sau:

- Khiêm nhường: Nhận ra mình cần đến ơn của Chúa và sự giúp đỡ của tha nhân.

- Thành thật: Sống không giả dối, không che dấu sự thật.

- Trách nhiệm: Làm điều mình nói và giữ lấy lời hứa.

- Kiên định: Trung thành với những giá trị của Tin mừng.

- Khôn ngoan: Giúp phân định điều thiện đích thực và chọn lựa phương thế phù hợp để đạt được đích điểm.

- Công bình: Trả cho tha nhân những gì thuộc về họ và trả hết mọi sự về cho Chúa.

- Can đảm: Kiên vững trong thử thách, vượt qua mọi sự sợ hãi để bảo vệ Chân lý.

- Tiết độ: Giữ sự quân bình trong đời sống và điều hòa các đam mê.

Để có được những đức tính nhân bản và làm chứng cho Tin mừng, người Kitô hữu phải sống theo gương Chúa Giêsu Kitô, tất cả mọi sự đều quy hướng về Chúa Giêsu Kitô. Đức Giêsu chính là hiện thân hoàn hảo của tất cả những đức tính nhân bản, Người luôn biết phân định điều ngay lẽ phải, luôn chọn con đường yêu thương và sống theo sự thật. Người đối xử công bằng với tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo hèn khốn khó và chính Người cũng sống thân phận khó nghèo đơn sơ, không chạy theo danh - lợi –thú. Người không sợ hãi trước những quyền lực thế gian nhưng luôn dám lên tiếng bảo vệ sự thật. Người dạy cho nhân thế con đường giải thoát (x. Ga 8,32) và chính Người là Sự thật (x. Ga 14,6). Ai đến với Người, đi theo Người, sống cùng và trong Người sẽ có được sự sống đời đời. Mọi lời nói và hành động của Người đều là sự thật, không hề có sự gian dối hay quanh co. Ân sủng và sự thật đều đến qua Người. Chúa Giêsu trung thực với chính Chúa Cha, Người luôn vâng phục và chu toàn sứ mạng được trao phó (x. Ga 5,30; 6,38). Người đã hứa và đã ban Chúa Thánh Thần cùng với sự sự sống đời đời, đó là nền tảng đức tin cho Hội Thánh trong cuộc lữ thứ trần gian ngày hôm nay.

Để làm chứng cho Tin mừng, ta phải có một lối sống chân thật, chân thật với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Ta phải sống theo sự thật của Tin mừng, sống không giả hình, không thỏa hiệp với sự gian dối của thế gian. Một đời sống chân thật được thể hiện qua hành động và lời nói: việc làm và lời nói phải đi đôi với nhau, “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37), qua việc sống trung thực với công ăn việc làm và các tương quan với tha nhân, và nhất là luôn giữ vững niềm tin nơi Thiên Chúa dù có gặp phải những sự hiểu lầm thử thách gian truân.

Để kiên vững niềm tin và nuôi dưỡng các đức tính nhân bản, ta cần phải:

- Cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, để hiểu Chúa muốn nói gì nơi ta và trung thành sống theo Thánh ý Chúa.

- Tham dự vào đời sống của Hội Thánh và siêng năng lãnh nhận các Bí tích.

- Xin ơn Chúa soi sáng và nhờ ơn Chúa trợ giúp để thực hành các đức tính nhân bản trong đời sống thường ngày.

Trong một thế giới đầy biến động, tục hóa và mang đầy cá nhân chủ nghĩa, giữa một thế gian còn mang nhiều sự ác - sự dữ - sự tội, người Kitô hữu luôn phải bơi ngược dòng. Như thế, việc sống các đức tính nhân bản và làm chứng cho Tin mừng mới có giá trị và là một lời đáp trả mạnh mẽ cho thế gian. Nhờ vậy, đức tin của ta mới trở nên hữu hình và hấp dẫn với tha nhân, góp phần xây dựng một xã hội công bằng nhân ái và có nền tảng luân lý, người Kitô hữu sẽ trở thành chứng nhân sống động của tình yêu Thiên Chúa giữa cuộc sống này.

Kitô hữu trong thế giới ngày nay phải làm chứng cho Tin mừng qua đời sống chân thật. Chân thật không chỉ qua lời nói mà còn là sống thật, không giả hình giả dối, không sống hình thức hai mặt, không sống trái với niềm tin Kitô giáo. Kitô hữu sống chân thật sẽ trở thành “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14), sẽ là dấu chỉ hạnh phúc của Nước Thiên Chúa giữa đời sống thường ngày. Giữa một thế gian đầy giả dối và nhiều hoài nghi, đời sống trung thực của Kitô hữu sẽ là một lời chứng hùng hồn mạnh mẽ cho Tin mừng của Thiên Chúa.

Là người thuộc về Chúa và là người được sai đi phục vụ tha nhân trong đại gia đình Hội Thánh, mỗi Kitô hữu được mời gọi để sống kết hợp với Chúa, liên đới với anh chị em trong tình huynh đệ và biết đóng góp phần mình vào sứ mạng chung của Hội Thánh.

Là “người hành hương trên đường hy vọng” đang “cùng nhau loan báo Tin mừng”, chúng ta được mời gọi nuôi dưỡng một đời sống chân thật, nơi mỗi hành động - dù nhỏ bé - đều xuất phát từ tình yêu và sự thật. Đó chính là một trong những cách mạnh mẽ nhất để làm chứng cho Tin mừng, cho thấy tính trung thực và lòng đáng tin cậy không chỉ là phẩm chất cá nhân, mà là nền tảng để mang lại sức sống cho xã hội theo tinh thần nhân bản và Tin mừng.

Hồi tâm:

1) Trong môi trường sống hằng ngày, bạn gặp phải những thách đố nào khi cố gắng sống trung thực và đáng tin cậy? Bạn đã từng vượt qua những thách đố đó bằng cách nào?

2) Theo bạn, đức tính nhân bản nào là quan trọng nhất đối với người Ki-tô hữu khi sống sứ mạng làm chứng cho Tin mừng trong xã hội hôm nay? Vì sao?

3) Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo của sự chân thật và trung thành với sứ mạng. Bạn học được điều gì từ lối sống của Chúa để áp dụng trong hành trình đức tin cá nhân?

 

[1] Tông huấn Kitô hữu Giáo dân, số 24, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christifideles-laici-kito-huu-giao-dan-ve-on-goi-va-su-mang-cua-giao-dan-trong-giao-hoi-va-the-gioi-55844

[2] Thư chung HĐGMVN 2007, số 3, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-chung-2007-cua-hoi-ong-giam-muc-viet-nam-ve-giao-duc-kito-giao-giao-duc-hom-nay-xa-hoi-va-giao-hoi-ngay-mai-17878

[3] Đức Bênêđictô XVI, Bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung vào ngày 31-8-2011, tại quảng trường thánh Phê-rô, nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-ly-ve-cau-nguyen-cua-duc-benedicto-xvi---bai-11-nghe-thuat-va-viec-cau-nguyen

[4] X. Mathilde De Robien, Đức Bênêđictô XVI: Để trở nên thánh thiện hơn mỗi ngày, nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-benedicto-xvi-de-tro-nen-thanh-thien-hon-moi-ngay-50327

[5] Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới Lần Thứ XIII: Sứ điệp gửi cộng đồng dân Chúa, số 10.Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN số 77 (tháng 7 & 8 năm 2013).

[6] Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, bản hướng dẫn mục vụ năm Đức tin, ngày 6-1-2012. nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bo-giao-ly-duc-tin-huong-dan-muc-vu-cho-nam-duc-tin-17788

[7] Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nunctiandi, số 20.

[8] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, số 52

[9] Công đồng Vat. II, tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae, sô1

[10] Nt số 3.

[11] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Sắc chỉ Spes non Confundit, số 7.

[12] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thư gởi các Nghệ sĩ vào ngày 4-4-1999, số 16

[13] Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 35

[14] Nt.

[15] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thư gởi các Nghệ sĩ vào ngày 4-4-1999, số 6

[16] Đức Bênêđictô XVI, bài diễn văn nói với các Nghệ sĩ tại Nguyện đường Sistine vào ngày 21/11/2009.

[17] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thư gởi các Nghệ sĩ vào ngày 4-4-1999, số 6.

[18] Nt, số 12.

[19] Nt.

[20] Nt, số 10

[21] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangeli Gaudium (Niềm vui Tin mừng), số 167.

 
Ủy ban Giáo dân
04/09/2025

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây