TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XIX Thường Niên -Năm C

“Các con hãy sẵn sàng”. (Lc 12,32-48)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Việc Cầu Nguyện trong các cuộc Hành Hương

Thứ sáu - 08/08/2025 20:55 | Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thảo |   44
Trong Năm Thánh Những Người Hành Hương của Hy Vọng, chúng ta nghe lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô
Việc Cầu Nguyện trong các cuộc Hành Hương

VIỆC CẦU NGUYỆN TRONG CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG


WHĐ (08/8/2025) - Trong Năm Thánh Những Người Hành Hương của Hy Vọng, chúng ta nghe lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Cầu nguyện là sức mạnh trước hết của niềm hy vọng. Bạn cầu nguyện và niềm hy vọng sẽ lớn lên, tiến về phía trước. Tôi có thể nói rằng cầu nguyện mở ra cánh cửa hy vọng. Có hy vọng, nhưng tôi mở cửa bằng lời cầu nguyện của mình” (Tiếp kiến chung, ngày 20 tháng 5 năm 2020)

Dẫn nhập

I. SỰ GẮN KẾT CỦA VIỆC CẦU NGUYỆN TRONG CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG

II. NHỮNG Ý HƯỚNG VÀ TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN TRONG CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG

1. Cầu nguyện để tìm kiếm sự hiện diện nâng đỡ của Chúa

2. Cầu nguyện giúp sống kết hợp gần gũi với Chúa

3. Cầu nguyện trong đức tin và lòng tín thác

4. Cầu nguyện với tâm tình cảm tạ và ngợi khen

5. Cầu nguyện xin sự hướng dẫn của Chúa

6. Cầu nguyện khi đối diện với khó khăn trên hành trình thi hành sứ vụ

7. Lời nguyện chuyển cầu cho tha nhân

8. Lời cầu nguyện sám hối

9. Đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu

Kết luận

Dẫn nhập

Trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ dẫn rằng: “Không phải ngẫu nhiên mà hành hương là yếu tố cơ bản của mọi sự kiện Năm Thánh. Lên đường là đặc điểm của người đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Hành hương bằng cách đi bộ rất có lợi cho việc tái khám phá giá trị của sự thinh lặng, sự cố gắng và của điều thiết yếu. Năm tới, một lần nữa, những người hành hương của hy vọng sẽ không bỏ lỡ việc bước đi trên những con đường cổ xưa và hiện đại để sống kinh nghiệm Năm Thánh một cách mãnh liệt…”[1]

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo kêu gọi người tín hữu thực hiện việc hành hương như một trong những hình thức của lòng đạo đức bình dân: “Ngoài phụng vụ bí tích và các á bí tích, việc dạy giáo lý còn phải kể đến những hình thức đạo đức của các tín hữu và những hình thức của lòng đạo đức bình dân. Cảm thức tôn giáo của dân Kitô giáo luôn luôn được diễn đạt bằng những hình thức đa dạng của lòng đạo đức, kèm theo đời sống bí tích của Hội Thánh, như việc tôn kính các di tích thánh, kính viếng các đền thánh, những cuộc hành hương, những cuộc rước kiệu, chặng đàng thánh giá, các vũ điệu tôn giáo, kinh Mân Côi, đeo ảnh thánh…”[2]

Quả thực, hành hương là một truyền thống lâu đời trong đời sống Kitô giáo, là nơi các tín hữu lên đường đến những nơi linh thánh để tìm kiếm sự gặp gỡ sâu xa với Thiên Chúa. Trong hành trình này, cầu nguyện giữ vai trò trung tâm, là phương tiện để gắn kết tâm hồn với Chúa và giúp ý thức về sự hiện diện của Ngài trong đời sống. Hiến chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II đã xác định: “Đời sống thiêng liêng không chỉ hạn hẹp trong việc tham dự Phụng vụ thánh. Thật vậy, người Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện chung, nhưng cũng phải biết vào phòng riêng âm thầm cầu nguyện cùng Chúa Cha, hơn nữa phải cầu nguyện không ngừng như lời Thánh Tông Đồ khuyên dạy”.[3]

Vì thế, bài viết này muốn trình bày trước hết là sự gắn kết không thể thiếu của việc cầu nguyện trong các cuộc hành hương. Và trong phần chính sẽ dựa vào Lời Chúa và các mẫu gương cầu nguyện trong Kinh Thánh để trình bày những ý hướng và tâm tình cầu nguyện. Đây là một gợi ý với ước muốn giúp những ai tổ chức hành hương chọn ý hướng và tạo bầu khí cũng như tâm tình cầu nguyện cho mỗi cuộc hành hương trong Năm Thánh.

I. SỰ GẮN KẾT CỦA VIỆC CẦU NGUYỆN TRONG CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG

Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, mục Hành hương giải thích rằng: “Phần nhiều các tôn giáo thường tổ chức những cuộc hành hương. Hành hương là một phong tục có từ lâu trước khi Thánh Kinh được biên soạn. Đó là cuộc lữ hành của các tín hữu về một nơi được thánh hiến do một cuộc hiển linh hoặc do hoạt động của một vị giáo chủ. Họ tới đó đề dâng lời cầu nguyện trong một khung cảnh thích hợp đặc biệt. Vì là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành hương nên việc kính viếng nơi thánh thường được chuần bị bằng những nghi thức thanh tẩy và kết thúc trong một buổi nhóm họp làm cho các tín hữu ý thức họ thuộc cộng đoàn tôn giáo nào. Như thế hành hương là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Ngài trong khung cảnh phụng tự”.[4]

Như vậy, hành hương là một hành động tôn giáo hoặc tâm linh. Trong đó, cá nhân hoặc một nhóm người di chuyển đến các địa điểm linh thiêng hay còn gọi là thánh địa, với mục đích thể hiện lòng tôn kính, tìm kiếm sự an bình nội tâm, chuộc lỗi hoặc mong muốn đón nhận được phước lành. Hành hương là một phần quan trọng trong thực hành của nhiều tôn giáo, chẳng hạn như đến Mecca trong Hồi giáo, Varanasi trong Ấn Độ giáo, bốn thánh tích linh thiêng hành hương trong Phật giáo: Lumbini, Bodh Gaya, Sarnath và Kushinagar, thánh địa Israel hay các đền thờ ở Rôma trong Kitô giáo.

Việc cầu nguyện luôn được thực hiện trong các cuộc hành hương. Mục hành hương trong Từ Điển Công Giáo định nghĩa rằng: “Cuộc hành hương là hành trình của các tín hữu rời nơi mình đang ở, đi tới một nơi thánh thiêng, để tỏ lòng sùng kính, tham dự lễ hội, cầu nguyện, làm việc đền tội, xin ơn hay tạ ơn… Trước hay trong cuộc hành hương, tín hữu thường được mời gọi chuẩn bị tâm hồn bằng các nghi thức hay các bí tích, để đón nhận hoa trái thiêng liêng trong nỗ lực tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa”.[5]

Huấn quyền của Hội Thánh nhấn mạnh rằng hành hương là cơ hội đặc biệt để làm mới đời sống đức tin qua cầu nguyện. Theo Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Những cuộc hành hương nhắc nhớ chúng ta ở trần gian nhưng đang tiến bước về trời. Theo truyền thống đây là những thời gian rất thích hợp để canh tân việc cầu nguyện. Đối với các khách hành hương đang tìm kiếm cho mình những nguồn mạch sống động, các đền thánh là những nơi đặc biệt để họ, ‘với tính cách là Hội Thánh’, sống những thể thức cầu nguyện của Kitô giáo”.[6]

Trong Tài liệu “Sống Năm Cầu Nguyện Để Chuẩn Bị Cho Năm Thánh 2025”, Bộ Loan Báo Tin Mừng đã nhắc nhớ rằng: “Ngay từ những tháng đầu tiên trong sứ vụ giáo hoàng của ngài, Đức Thánh Cha đã mô tả cầu nguyện là nơi mà các Kitô hữu nhận ra mình là một phần của “gia đình duy nhất trong Thiên Chúa” (Tiếp kiến chung, ngày 25 tháng 9 năm 2013), bởi vì qua cầu nguyện, chúng ta củng cố những mối liên kết của tình huynh đệ kết hợp chúng ta với cùng một Cha. Những lời này làm vang vọng lại những lời trong Sách Giáo lý dạy rằng chính trong kinh nguyện phụng vụ mà Hội Thánh nhận ra mình là một Thân thể duy nhất hướng về Chúa của mình (x. GLHTCG 2641-2643) – ‘Ở đâu có cầu nguyện, ở đó có tình hiệp thông; và ở đâu có tình hiệp thông, ở đó có cầu nguyện’”.[7]

Và để chuẩn bị bước vào Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Năm Cầu Nguyện 2024, ngài mời gọi các tín hữu: “Tôi xin anh chị em đẩy mạnh việc cầu nguyện để chuẩn bị sống tốt biến cố ân sủng này và cảm nghiệm được sức mạnh của niềm hy vọng Chúa ban… Một năm dành riêng để khám phá lại giá trị to lớn và nhu cầu tuyệt đối của việc cầu nguyện trong đời sống cá nhân, đời sống Giáo hội và trong thế giới”.[8]

Do đó, hành hương luôn gắn kết với việc cầu nguyện, thờ phượng và việc lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, nhờ đó tín hữu đạt được sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa. Trong lời tựa tập sách Ý Nghĩa Và Lịch Sử Của Hành Hương, tác giả lưu ý rằng tập sách không phải là “tài liệu hướng dẫn du lịch”, nhưng muốn giúp độc giả biết được lịch sử và ý nghĩa đích thực của hành hương. Theo đó, “Ý nghĩa hành hương không gì khác hơn là gặp gỡ Thiên Chúa” và “người đi hành hương để ‘cầu nguyện bằng đôi chân-praying with our feet’; họ có kinh nghiệm bằng các giác quan rằng, cả cuộc đời mình là một cuộc hành trình dài tiến về cùng Thiên Chúa”.[9]

Và trong lời giới thiệu cho tập sách trên, linh mục Giuse Cao Gia An, SJ, đã nhấn mạnh rằng: “Ngày nay, chữ ‘hành hương’ rất dễ bị lạm dụng. Chỉ xách giỏ lên và đi thôi thì chưa đủ để làm nên một khóa hành hương đâu! Chỉ đến một nơi nào đó, mở cẩm nang ra để đọc một chút về lịch sử hay về giá trị văn hoá và kiến trúc, rồi sau đó là check-in, selfie, flex, rồi sau nữa là mua sắm, ăn uống… thì chưa phải là hành hương đâu! Tập sách này chỉ hữu ích với những ai có khả năng bước đi với đôi chân cầu nguyện, với đôi mắt của một kẻ đi tìm, và với trái tim khao khát của một người lữ khách”.[10]

Như vậy, hành hương mà không có cầu nguyện thì chỉ là một chuyến du lịch tôn giáo. Cầu nguyện chính là linh hồn của hành hương, giúp người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và sống trong tâm tình kết hiệp với Ngài.

II. NHỮNG Ý HƯỚNG VÀ TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN TRONG CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG

Hướng Dẫn Về Lòng Đạo Đức Bình Dân Và Phụng Vụ của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích chỉ ra rằng, lời cầu nguyện của người hành hương có nhiều hình thức khác nhau: lời cầu nguyện ca ngợi và thờ lạy dâng lên Chúa vì lòng nhân lành và thánh thiện của Ngài; lời cầu nguyện tạ ơn vì những ân huệ đã lãnh nhận; lời cầu nguyện nhằm hoàn thành lời thề hứa mà người hành hương đã cam kết trước mặt Chúa; lời cầu nguyện xin những ân sủng cần thiết cho cuộc sống; lời cầu nguyện khẩn xin sự tha thứ của Thiên Chúa cho những tội lỗi đã phạm.[11]

Chúng ta tìm thấy những ý hướng và tâm tình cầu nguyện này trong Kinh Thánh qua các cuộc hành trình tâm linh như cuộc hành hương tìm kiếm Chúa.

1. Cầu nguyện để tìm kiếm sự hiện diện nâng đỡ của Chúa

Cầu nguyện là hơi thở của đời sống Kitô hữu, là con đường giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận sự nâng đỡ của Ngài. “Đối với người Kitô hữu, cầu nguyện phải là ‘hơi thở sự sống’ thiêng liêng (Tiếp kiến chung, ngày 9 tháng 6 năm 2021), không bao giờ đứt đoạn, ‘cả khi chúng ta ngủ’, như Đức Thánh Cha khẳng định -, và nếu không có hơi thở này thì cũng không thể có cái hành vi quyết định đưa chúng ta vào trong mối quan hệ với Chúa Cha”.[12]

Trong những lúc khó khăn, đau khổ hay lạc lối, cầu nguyện không chỉ là lời kêu xin mà còn là hành động tín thác, đặt mình trong sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa. “‘Trong cầu nguyện, chính Thiên Chúa cải hoá chúng ta, chứ không phải chúng ta phải cải hoá Thiên Chúa’ (Tiếp kiến chung, ngày 26 tháng 5 năm 2021). Điều được hiến dâng phải chính là sự sống của chúng ta, thậm chí là sự khốn cùng của chúng ta! Chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể cảm nghiệm được ‘lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng như một người Cha đầy tình thương và nhân hậu đến gặp gỡ con cái mình’” (Tiếp kiến chung, ngày 25 tháng 5 năm 2016).[13]

Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.” (Tv 84,6).[14] Lời Thánh vịnh 84 diễn tả cả nỗi khát mong thực hiện cuộc hành hương tìm về nơi Chúa ngự trị, đó là: cung điện Ngài, khuôn viên đền vàng, bên bàn thờ Chúa, trong thánh điện, trên núi Sion, cổng đền Thiên Chúa…

Chắn chắn rằng, trong niềm tin tưởng vào Chúa, đoàn người hành hương muốn tìm về nơi Chúa hiện diện để tìm nơi nương tựa như chim sẻ tìm mái ấm, cánh nhạn tìm tổ đặt con; như người yếu sức tìm được nguồn sức mạnh nơi Chúa là khiên mộc chở che; như người khao khát tìm được nguồn suối nước, phúc lộc hay ơn lành cho cuộc sống.

Quả thực đây là lời hứa cho những người hành hương sẽ nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa, Đấng sẽ biến những đau khổ thử thách thành phúc lành khi họ khao khát sự hiện diện của Ngài. Vì thế, họ vẫn luôn mãi dâng lời khẩn nguyện: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp” (Tv 84,9).

Khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ xin ơn nhưng còn mở lòng để nhận biết Chúa đang hiện diện và đồng hành với mình. Trong những giây phút đau khổ, cầu nguyện là nguồn sức mạnh giúp ta vững bước. Cầu nguyện giúp ta cảm nhận sự hiện diện của Chúa vì Ngài không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Ngài luôn ở gần và lắng nghe tiếng kêu cầu của chúng ta. Lời Thánh vịnh đã nói: “Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người. Kẻ kính sợ Người, Người cho toại nguyện, nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu” (Tv 145,18-19).

2. Cầu nguyện giúp sống kết hợp gần gũi với Chúa

Thánh Giacôbê tông đồ đã nhắn nhủ: “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em. Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho sạch; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can. Hãy cảm cho thấu nỗi khốn cùng của anh em, hãy khóc lóc than van. Chớ gì tiếng cười của anh em biến thành tiếng khóc, niềm vui của anh em đổi ra nỗi buồn. Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (Gc 4,7-10).

Thật vậy, Chúa Giêsu vẫn luôn mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Như thế, hành hương là dịp đến gần Chúa và là cơ hội để sống gần gũi bên Chúa trong suy tư cầu nguyện hầu đón nhận sự đổi mới trong mối tương quan với Ngài.

Cầu nguyện không chỉ là một hành động đạo đức tôn giáo mà còn là sợi dây kết nối sâu xa giữa con người với Thiên Chúa. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như người con thưa với cha mình và là cách thế giúp chúng ta xây dựng mối tương quan cá nhân với Ngài.[15] Qua cầu nguyện, chúng ta mở lòng mình để lắng nghe, đối thoại và được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa. “Trong cuộc đối thoại này, người tín hữu không chỉ nói chuyện với Thiên Chúa mà còn học cách lắng nghe Ngài, tìm ra những câu trả lời và sự hướng dẫn trong ánh sáng sự hiện diện thầm lặng của Ngài. Như thế, cầu nguyện trở thành cầu nối giữa trời và đất, một nơi gặp gỡ mà ở đó trái tim con người và trái tim Thiên Chúa hòa quyện vào nhau trong một cuộc đối thoại yêu thương không ngừng”.[16]

Hướng Dẫn Về Lòng Đạo Đức Bình Dân Và Phụng Vụ của Bộ Phụng Tự và Bí Tích đã chỉ dẫn: “Hành hương chủ yếu là một hành động của phụng tự: thật vậy, khi tiến bước về đền thánh, người hành hương đến gặp gỡ Thiên Chúa để hiện diện trước tôn nhan Người, thờ lạy Người và cởi mở tấm lòng ra với Người”.[17] Nhờ việc cầu nguyện, ta có thể chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, hy vọng và lo lắng trong cuộc sống với Chúa.

Khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng rằng Chúa luôn hiện diện, lắng nghe và hướng dẫn. “Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, cầu nguyện là một cuộc đối thoại thực sự với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ ‘diện đối diện với Ngài’ (Suy niệm buổi sáng tại Nhà nguyện của Nhà Thánh Mátta, ngày 15 tháng 3 năm 2018), là thời gian lắng nghe và đáp lại, nơi người tín hữu mở lòng mình ra cho ý muốn và sự hướng dẫn của Chúa”.[18] Đó là giây phút mà chúng ta được đắm chìm trong lòng yêu thương và sự quan phòng của Ngài. Lời Thánh vịnh mời gọi: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.” (Tv 37,5).

3. Cầu nguyện trong đức tin và lòng tín thác

Ở đây chúng ta tìm được mẫu gương cầu nguyện với đức tin của tổ phụ Abraham. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Việc cầu nguyện của ông Abraham được diễn tả trước tiên bằng hành động: là con người thinh lặng, ông đã dựng một bàn thờ để kính Chúa ở mỗi chặng dừng chân. Chỉ mãi sau này, lần đầu tiên ông mới cầu nguyện bằng lời: đó là một lời than thở kín đáo, nhắc Thiên Chúa nhớ đến các lời hứa của Ngài, mà xem ra như không thực hiện”.[19] Đó là thử thách đức tin trong cầu nguyện.

Tổ phụ Abraham là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong Kinh Thánh, được coi là “cha của mọi kẻ tin” (Rm 4,11) vì lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Cuộc đời của ông là một hành trình của đức tin, được thể hiện rõ ràng qua những lần ông cầu nguyện và đối thoại với Chúa. Lời cầu nguyện của ông Abraham không chỉ là sự thỉnh cầu, mà còn là biểu hiện của một mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, trong đó ông bày tỏ sự vâng phục, tin tưởng và lòng trông cậy tuyệt đối.

Một trong những minh chứng tiêu biểu nhất cho đức tin của tổ phụ Abraham trong lời cầu nguyện là khi ông đối thoại với Chúa về số phận của thành Sôđôma và Gômôra (x. St 18,22-33). Trong cuộc trò chuyện này, ông Abraham đã mạnh dạn cầu xin Thiên Chúa thương xót thành phố nếu tìm thấy những người công chính. Ông bắt đầu với con số 50 và dần dần hạ xuống còn 10, cho thấy tấm lòng kiên trì, lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người, và trên hết là niềm tin vào sự công bằng và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Điều này cho thấy rằng, lời cầu nguyện không chỉ là lời thỉnh cầu một chiều mà còn là sự đối thoại, nơi con người có thể bày tỏ tấm lòng và đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện của tổ phụ Abraham còn được thể hiện rõ qua sự kiện Thiên Chúa kêu gọi ông hiến tế con trai duy nhất, Isaac (x. St 22,1-19). Dù không có một lời cầu nguyện trực tiếp nào được ghi chép trong đoạn này, nhưng hành động của ông Abraham chính là một lời cầu nguyện sống động, lời cầu nguyện của lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa truyền lệnh, ông không do dự, không thắc mắc, mà hoàn toàn vâng phục. Đây là đỉnh cao của đức tin, nơi mà cầu nguyện không chỉ là những lời nói, mà là cả một thái độ sống, một sự dấn thân trọn vẹn vào thánh ý của Thiên Chúa.

Hành động này của tổ phụ Abraham đã để lại bài học sâu sắc về cách cầu nguyện trong đời sống Kitô hữu. Cầu nguyện không chỉ là thưa với Chúa những điều mình mong muốn, mà còn là lắng nghe, sẵn sàng thực thi ý muốn của Ngài, ngay cả khi điều đó thách đố lòng tin của chúng ta. Đức tin thực sự trong lời cầu nguyện không phải là tin rằng Thiên Chúa sẽ làm theo ý mình, mà là tin rằng Ngài luôn có kế hoạch tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta.

Lời cầu nguyện của tổ phụ Abraham còn dạy chúng ta nhiều bài học quý giá về sự kiên trì, lòng tín thác và thái độ sẵn sàng lắng nghe Thiên Chúa. Trong cuộc sống ngày nay, nhiều khi chúng ta cầu nguyện nhưng lại thiếu lòng tin hoặc chỉ mong Chúa đáp ứng điều mình mong muốn mà không sẵn sàng đón nhận ý Ngài. Học theo gương tổ phụ Abraham, chúng ta cần kiên trì trong cầu nguyện, không nản lòng khi chưa nhận được câu trả lời ngay lập tức. Đồng thời, chúng ta cũng phải đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài luôn lắng nghe và hành động theo kế hoạch yêu thương dành cho mỗi người.

Hơn nữa, lời cầu nguyện của tổ phụ Abraham cũng nhắc nhớ chúng ta về tấm lòng biết quan tâm đến tha nhân. Khi cầu nguyện cho thành Sôđôma, ông không chỉ lo cho bản thân mà còn nài xin cho những người khác. Điều này khuyến khích chúng ta mở rộng lời cầu nguyện, không chỉ giới hạn trong những nhu cầu cá nhân mà còn biết cầu xin cho gia đình, cộng đoàn và toàn thể nhân loại.

Lời cầu nguyện với đức tin của tổ phụ Abraham là một mẫu gương tuyệt vời cho mỗi tín hữu. Ông không chỉ cầu nguyện với lòng tin mạnh mẽ, mà còn sẵn sàng thực hiện ý Chúa dù điều đó vượt quá sự hiểu biết của con người. Qua đó, ông dạy chúng ta rằng cầu nguyện không chỉ là thưa chuyện với Chúa, mà còn là một hành trình đức tin, nơi chúng ta học cách tín thác mà vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa và luôn mở lòng để đón nhận thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Trong bài giáo lý về lời cầu nguyện của Abraham, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Chúng ta hãy học theo ông Abraham, học cầu nguyện bằng đức tin: lắng nghe Chúa, bước đi, đối thoại để thảo luận. Chúng ta đừng sợ tranh luận với Thiên Chúa, ngay cả nói một điều có vẻ như lạc đạo. Nhiều lần tôi đã nghe người ta nói với tôi ‘Cha có biết không, điều này xảy ra với con và con nổi giận với Chúa’ – ‘Nhưng con có dám giận Chúa sao ?’ – ‘Dạ có, con nổi giận!’ Nhưng đây là một hình thức cầu nguyện bởi vì chỉ có con cái mới có thể nổi giận với cha mình và sau đó gặp lại ông. Chúng ta hãy học ông Abraham, trò chuyện và tranh luận, với đức tin, nhưng luôn sẵn sàng đón nhận lời Chúa và đưa nó vào thực hành. Với Chúa, chúng ta học cách nói chuyện như một người con với cha của mình; lắng nghe Người, trả lời, tranh luận. Nhưng rõ ràng thẳng thắn như con cái với cha. Ông Abraham dạy chúng ta cầu nguyện như thế”.[20]

4. Cầu nguyện với tâm tình cảm tạ và ngợi khen

 “Hãy vào cửa thánh điện cất tiếng tạ ơn, tới khuôn viên đền vàng dâng lời ca ngợi, tạ ơn Chúa và chúc tụng danh Người.” (Tv 100,4). Lời Thánh vịnh gợi nhắc tâm tình của người hành hương tiến về nhà Chúa. Đó là tâm tình cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng. Đối với người Kitô hữu, cầu nguyện không chỉ là lúc xin ơn mà đúng hơn, cầu nguyện chính là cơ hội để bày tỏ lòng biết ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên và đã ban tặng muôn vàn hồng ân cho chúng ta trong cuộc sống này. Thật vậy, mỗi khoảnh khắc sống, khí thở, sức khỏe, ánh sáng, … đều là ân ban từ Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể không cất lên lời cảm tạ khi ý thức rằng tất cả những điều tốt lành trong cuộc đời đều đến từ Chúa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2).

Tri ân cảm tạ không chỉ được thể hiện bằng lời nói hay bài ca mà còn là cả tâm tình và thái độ sống của chúng ta. Khi chúng ta biết ơn Chúa về những điều cao trọng và cả những việc nhỏ bé Chúa thực hiện trong cuộc đời mình, tâm hồn chúng ta trở nên khiêm nhường và chan chứa niềm vui. Ngay cả trong những lúc khó khăn, nếu nhìn nhận mọi sự qua lăng kính đức tin, chúng ta vẫn thấy lý do để cảm tạ. Chính trong thử thách, Chúa vẫn luôn rèn luyện và đồng hành với chúng ta.

Qua hành động ngợi khen, tâm hồn chúng ta mở ra để cảm nhận tình yêu Chúa sâu đậm và dâng hiến trọn vẹn con người mình lên Chúa hầu sống kết hợp mật thiết với Ngài hơn. Ngợi khen là cách chúng ta tôn vinh sự thánh thiện, quyền năng và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa là khi chúng ta đặt Chúa vào vị trí cao trọng nhất trong đời mình, như lời Thánh vịnh: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao.” (Tv 96, 2-5).

Đức Maria, Mẹ Hội Thánh và là Mẹ của mỗi người chúng ta, chính là mẫu gương tuyệt hảo của đời sống cầu nguyện ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa. Cuộc đời của Mẹ là một hành trình liên lỉ hướng về Thiên Chúa, đầy tràn lòng tin yêu, sự vâng phục và lời ngợi khen. Nhìn vào cuộc đời Đức Maria, người Kitô hữu tìm thấy nguồn cảm hứng và mẫu mực để sống đời cầu nguyện và tôn vinh Thiên Chúa.

Lời thưa “xin vâng” của Mẹ không chỉ là biểu lộ sự vâng phục mà còn là một hành vi cầu nguyện trọn vẹn, khiêm nhường và tín thác. Qua đó, Mẹ dạy chúng ta rằng cầu nguyện không chỉ là lời nói mà còn là sự đáp trả bằng cả con tim và hành động. Đặc biệt, lời kinh tạ ơn Magnificat (Lc 1,46-55) là một minh chứng tuyệt vời cho đời sống cầu nguyện và tôn vinh Thiên Chúa của Đức Maria. Mẹ dâng lời ngợi khen Thiên Chúa vì những kỳ công Ngài đã thực hiện, không chỉ nơi Mẹ mà còn trong toàn thể nhân loại. “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46-47). Qua bài ca này, Đức Maria dạy chúng ta rằng cầu nguyện không chỉ là xin ơn mà còn là ca tụng, cảm tạ và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng biến cố cuộc đời mình.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã dạy rằng “Đức Maria là người phụ nữ cầu nguyện trọn hảo, là hình ảnh của Hội Thánh”. “Kinh nguyện của Hội Thánh như được nâng đỡ bởi kinh nguyện của Đức Maria”.[21] Vì thế, “Hội Thánh ưa thích cầu nguyện trong sự hiệp thông với Mẹ, để cùng Mẹ tán dương những việc cao cả Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ…”[22]

Chúng ta cũng tìm được nơi Thánh Phaolô tông đồ mẫu gương sống tâm tình cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và về muôn ân phúc Chúa ban. Thật vậy, ngay đầu thư thứ nhất gởi giáo đoàn Thessalônica, được xem là bản văn cổ nhất trong các sách Tân ước, Thánh Phaolô đã viết: “Chúc anh em được ân sủng và bình an. Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em” (1Tx 1,1-2). Cũng trong thư này, thánh nhân dạy rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5,16-18). Hay khởi đầu thư gởi tín hữu Êphêsô, ngài đã dâng lời ca tụng rằng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1,3).

Có lẽ không mấy ai cảm nhận được như Thánh Phaolô về những ân ban Chúa dành cho ngài: từ là người Do Thái giáo thuần thành, am hiểu lề luật Cựu Ước, nhiệt thành bách hại các Kitô hữu thời sơ khai, rồi được ơn trở lại trong biến cố ngã ngựa ở Damas, được đặt làm tông đồ dân ngoại, thực hiện các cuộc hành trình truyền giáo, thiết lập tổ chức nhiều giáo đoàn, viết nhiều thư để làm sáng tỏ niềm tin Kitô giáo… rồi chịu bắt bớ, đánh đập và chịu xử tử vì Danh Đức Kitô mà ngài hết lòng yêu mến và rao giảng. Vì thế, ngài vẫn trọn một niềm ca khen tình thương của Chúa: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1,3-4).

Với tâm tình biết ơn qua cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng mọi điều tốt lành đều đến từ Chúa. Khi chúng ta nhìn nhận những phúc lành Chúa ban, lòng chúng ta tràn ngập niềm vui, và từ đó, những lời chúc tụng ngợi khen sẽ tự nhiên tuôn trào. Dù là lời nguyện cá nhân hay trong cộng đoàn, việc dâng lời cảm tạ và ngợi khen giúp chúng ta hướng đến sự thánh thiện và sống gần Chúa hơn.

5. Cầu nguyện xin sự hướng dẫn của Chúa

Cầu nguyện là cách thế quan trọng giúp chúng ta nâng tâm hồn kết nối hợp với Thiên Chúa và tìm kiếm sự hướng dẫn của Ngài cho cuộc sống lữ hành đức tin trần thế của mình. Trong một thế giới đầy những thử thách và cám dỗ ngày nay, cầu nguyện là thời khắc cần thiết giúp chúng ta tìm bước đi trong ánh sáng dẫn lối của Chúa, là nguồn sức mạnh giúp chúng ta giữ vững niềm tin và trung kiên thực hiện thánh ý của Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng cầu nguyện “thắp sáng ngọn đèn soi chiếu dung nhan Chúa Kitô hiện diện nơi anh chị em chúng ta, đúng như Sách Giáo lý dạy khi nói rằng cầu nguyện là ‘tương quan sống động của các con cái Thiên Chúa với Cha vô cùng tốt lành của mình, cùng với Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần’ (GLHTCG 2565). Trong cuộc đối thoại này, người tín hữu không chỉ nói chuyện với Thiên Chúa mà còn học cách lắng nghe Ngài, tìm ra những câu trả lời và sự hướng dẫn trong ánh sáng sự hiện diện thầm lặng của Ngài”.[23]

Quả vậy, lời sách Châm Ngôn đã dạy chúng ta về sự cần thiết của việc cầu nguyện tín thác vào sự hướng dẫn khôn ngoan của Chúa: “Hãy hết lòng tin tưởng vào Đức Chúa, chớ hề cậy dựa vào hiểu biết của con. Hãy nhận biết Người trong mọi đường đi nước bước, Người sẽ san bằng đường nẻo con đi. Đừng tự coi mình là khôn ngoan, hãy kính sợ Đức Chúa và tránh xa sự dữ” (Cn 3,5-7). Lời dạy này nhắc nhớ rằng không phải sự khôn ngoan của con người, mà chính sự khôn ngoan từ Thiên Chúa mới là ánh sáng dẫn đường chân thật. Qua cầu nguyện, chúng ta trao dâng những nỗi lo lắng, hoài nghi và khát vọng cá nhân lên Chúa, tin rằng Ngài luôn biết và ban điều tốt nhất cho chúng ta.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm và chỉ cho chúng ta biết rằng con người yếu hèn cần ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần: “Có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).

Tuy nhiên, trong hành trình cầu nguyện tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa, chúng ta cần biết kiên nhẫn lắng nghe thay vì mong đợi những câu trả lời ngay lập tức. Vì rằng cầu nguyện không chỉ là việc trình bày mong ước của mình mà còn là lắng nghe tiếng Chúa và ý Chúa muốn cho cuộc đời chúng ta. Như lời thầy cả Heli chỉ dạy cho cậu bé Samuel đáp lại khi có tiếng gọi: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1Sm 3,9). Quả thật, đây là lời cầu nguyện thật đẹp và ý nghĩa vì nó cho thấy tương quan thân mật và chân thật giữa con người nhỏ bé thấp hèn với Thiên Chúa là Đấng cao cả và khôn ngoan thượng trí. Vì thế, thái độ cần thiết khi cầu nguyện là biết sẵn sàng lắng nghe và khiêm tốn đón nhận đường lối thánh ý của Chúa, như Mẹ Maria: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

6. Cầu nguyện khi đối diện với khó khăn trên hành trình thi hành sứ vụ

Lời tiên tri Isaia đã nói: “Những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân.” (Is 40,31).

Ở đây, ta nhớ đến câu chuyện của nhà tiên tri Êlia. Ông đã vạch trần sự mê muội lầm lạc của vua và dân của vương quốc miền Bắc thế kỷ thứ IX trước Công nguyên, khi chạy theo dân ngoại tôn thờ ngẫu tượng Baal, tin rằng các ngôn sứ của Baal nhảy khập khiễng, lắc mình, cào xước… để khiến thần linh đáp lời khấn cầu của họ, nhưng không thành. Đối diện với bốn trăm năm mươi ngôn sứ Baal đang hăng máu và toàn dân chứng kiến, Êlia một mình lập tế đàn, giết bò mộng tế lễ và tin tưởng khấn cầu “Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel”. Ông khấn xin rằng: “Xin đáp lời con, lạy Đức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ”. Và lời cầu nguyện của ông được Chúa nhận lời cho lửa xuống thiêu rụi toàn thể của lễ, củi đá… Toàn dân tụ họp trên núi Carmel chứng kiến liền phủ phục tuyên xưng: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa! Đức Chúa quả là Thiên Chúa!” (x. 1V 18,1-40).

Khi suy niệm câu chuyện này, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã dạy rằng: “Khi loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngôn sứ Êlia từng cầu xin Chúa cho con trai của người góa phụ tiếp đón ông được sống lại (x. 1V 17,17-24), kêu với Chúa ông quá mệt mỏi và lo âu khi phải trốn chạy vào hoang địa vì bị hoàng hậu Giêzaben truy lùng và khép án tử (x. 1V 19,1-4), nhưng đặc biệt hơn cả, trên núi Carmel, ông đã cho thấy tất cả sức mạnh của một người cầu xin khi ông cầu nguyện trước toàn thể dân Israel, nài xin Chúa tỏ mình ra và làm cho tâm hồn dân chúng được hoán cải”.[24]

Sau khi đã chiến thắng trong cuộc đọ sức với các ngôn sứ Baal, ông Êlia bị hoàng hậu Ideven truy lùng và khép án tử như ông đã dùng gươm giết các ngôn sứ Baal. Ông liền chạy trốn vào trong sa mạc, đến khi mệt lử ông tìm đến nghỉ dưới gốc cây kim tước, ông kêu than cùng Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”, rồi thiếp ngủ. Hai lần sứ thần Chúa đem bánh và nước đến tiếp sức cho ông, đánh thức ông dậy ăn để đủ sức đi tiếp đến núi của Thiên Chúa. Ở đó, ông thưa với Đức Chúa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” Rồi Đức Chúa chỉ đường cho ông trở về và truyền cho ông phong vua cho Aram, cho Israel và phong Êlisa làm ngôn sứ thay cho ông. (x. 1V 19,1-21).

Như thế, lời cầu nguyện và sự trông cậy nơi Chúa giúp hành trình trở nên dễ dàng hơn, ngay cả khi đối diện những khó khăn, thử thách, mệt nhọc...

Trong bài giảng giáo lý về Lời cầu nguyện của Êlia, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ ra rằng: “Trong tâm hồn người cầu nguyện, ý thức về sự yếu đuối của mình còn quý giá hơn những giây phút thăng hoa, khi dường như cuộc đời là một chuỗi của những chiến thắng và thành công. Trong cầu nguyện, điều này luôn xảy ra: những giây phút cầu nguyện nâng chúng ta lên, mang lại cho chúng ta lòng nhiệt thành, và những giây phút cầu nguyện lúc chúng ta cảm thấy đau đớn, khô khan hoặc thử thách. Cầu nguyện là thế này: để mình được Thiên Chúa nâng đỡ và cũng để mình được chạm đến bởi những hoàn cảnh tồi tệ cũng như những cám dỗ…” Chuyện ông Êlia cho chúng ta thấy rằng: “Cầu nguyện là đối diện với Thiên Chúa và để mình được sai đi phục vụ anh chị em mình. Thử thách của việc cầu nguyện là tình yêu cụ thể đối với người lân cận… Và cho dù chúng ta phạm sai lầm, hoặc chúng ta cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi, nhưng bằng cách trở về trước Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện, sự thanh thản và bình an cũng sẽ trở lại như vậy như một phép lạ. Đây là điều mà gương của Êlia dạy chúng ta”.[25]

7. Lời nguyện chuyển cầu cho tha nhân

Trong lịch sử cứu độ, ông Môsê được xem là một trong những nhân vật nổi bật, đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và dân Israel. Hành trình của ông với dân Chúa không chỉ là hành trình dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ Ai Cập mà còn là hành trình của lời cầu nguyện, lòng kiên nhẫn, và tình yêu thương dành cho một dân cứng lòng. Qua câu chuyện Môsê khẩn cầu Thiên Chúa tha thứ cho dân Israel trong sách Xuất Hành, chúng ta thấy được tấm lòng của một người mục tử luôn biết bênh vực, chuyển cầu cho đoàn chiên của mình.

Sách Xuất Hành 32 kể về câu chuyện dân Israel trong lúc chờ ông Môsê lên đỉnh núi gặp Thiên Chúa và nhận bia Chứng Ước, thì ở bên dưới dân chúng đòi Aaron đúc bò vàng để thờ lạy, họ đã phạm tội lớn là chối bỏ Thiên Chúa, khiến Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt họ “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (32, 9-10). Ngay lúc ấy, ông Môsê đã cầu xin mà bênh vực cho dân: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai Cập ?... Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài” (32,11-12). Ông nại đến thể diện của Chúa kẻo người Ai Cập cho rằng Ngài ác tâm và nại đến mối tương quan thân thiết với các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob (x. 32,13).

Ở đây, lời cầu nguyện của ông Môsê không chỉ là lời nài xin, mà còn là một lời nhắc nhớ Thiên Chúa về giao ước tình yêu mà Ngài đã lập với các tổ phụ. Ông Môsê không chỉ khẩn cầu vì sự sống còn của dân mà còn vì vinh quang danh Thiên Chúa, để các dân ngoại không hiểu sai về bản tính của Ngài. Và nhờ đó Thiên Chúa nguôi cơn thịnh nộ và tha cho dân Ngài (x 32,14).

Giáo huấn của Giáo hội nhấn mạnh vai trò của lời cầu nguyện chuyển cầu như một cách biểu lộ tình yêu và sự hiệp thông giữa con người với nhau và với Thiên Chúa. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chuyển cầu, nghĩa là cầu xin cho những người khác, ngay từ tổ phụ Abraham, là đặc điểm của một tâm hồn hòa nhịp với lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Trong thời của Hội Thánh, lời chuyển cầu của Kitô hữu tham dự vào lời chuyển cầu của Đức Kitô: đây là cách diễn tả mầu nhiệm các Thánh cùng thông công. Trong lời chuyển cầu, người cầu nguyện ‘đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác’ (Pl 2,4), thậm chí họ cầu nguyện cả cho những người làm hại họ”.[26] Như vậy, lời chuyển cầu mang chiều kích rộng lớn, mở rộng trái tim theo hình ảnh của Chúa Giêsu, là Đấng yêu thương mọi người, “là Đấng chuyển cầu duy nhất nơi Chúa Cha cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho kẻ tội lỗi”.[27]

Hành động và lời chuyển cầu của Môsê là mẫu gương tuyệt vời về tình yêu mục tử, lòng trắc ẩn và sự kiên trì trong lời cầu nguyện. Điều đó nhắc nhớ chúng ta về sức mạnh của lời cầu nguyện chuyển cầu, một hành động không chỉ làm đẹp lòng Thiên Chúa mà còn đem lại bình an và ơn cứu độ cho con người.

Theo gương Môsê, chúng ta hãy biết cầu nguyện, yêu thương và sống trách nhiệm với tha nhân, để mỗi chúng ta trở thành những cầu nối dẫn đưa người khác đến gần hơn với tình yêu Thiên Chúa. Là những người tín hữu, chúng ta cũng được mời gọi dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện chuyển cầu cho gia đình, cho cộng đồng và cho cả thế giới, đặc biệt trong những lúc khủng hoảng, đau thương do dịch bệnh, nghèo đói hay chiến tranh.

Cách đặc biêt, trong mầu nhiệm các Thánh cùng thông công, trong sắc chỉ Spes non confundit công bố Năm Thánh thường lệ 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta thực hiện các cuộc hành hương, kính viếng những nơi thánh, tham dự các cử hành phụng vụ, thực hành các việc đạo đức… để lãnh nhận Ơn Toàn Xá và nhường cho các linh hồn. Theo đó, “chúng ta hiểu rằng cần phải cầu nguyện cho những người đã hoàn tất cuộc hành trình trần thế, hiểu rằng lời chuyển cầu có tính liên đới, hữu hiệu nhờ sự hiệp thông của các thánh và mối liên kết chung nối kết chúng ta trong Chúa Kitô, Trưởng tử mọi tạo vật. Như vậy, nhờ lời cầu nguyện, ân xá Năm Thánh đặc biệt dành cho những người đi trước chúng ta để họ được hưởng lòng thương xót trọn vẹn”.[28]

Tưởng cũng cần nhắc lại rằng, Sắc lệnh về ban ân xá trong Năm Thánh này mở rộng cho việc “lãnh nhận Ơn Toàn Xá hai lần trong cùng một ngày và chỉ dành cho những người đã qua đời”. Theo đó, Tòa Ân Giải Tối Cao giải thích rằng: “Qua việc trao hiến kép này, tín hữu thực hiện một hành động đức ái siêu nhiên đáng ca ngợi, vì mối liên kết qua đó các tín hữu còn lữ hành trên trần thế được kết hợp với Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô, cùng với những người đã hoàn tất cuộc hành trình của mình, nhờ thực tế là “ân xá Năm Thánh, bởi sức mạnh của lời cầu nguyện, được dành một cách đặc biệt cho những người đi trước chúng ta, để họ có thể nhận được lòng thương xót trọn vẹn”.[29]

8. Lời cầu nguyện sám hối

Trong đời sống đức tin Kitô giáo, lời cầu nguyện sám hối đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây không chỉ là lời nguyện xuất phát từ lòng chân thành của con người tội lỗi trước Thiên Chúa công minh mà còn là cơ hội để mỗi hối nhân nhận ra tình yêu và lòng thương xót vô biên của Ngài, từ đó hướng đến việc hoán cải và đổi mới cách sống.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Không có tội nào, dù nặng nề đến mấy, mà Hội Thánh không thể tha thứ. ‘Không người nào, dù gian ác và xấu xa đến đâu, lại không thể hy vọng chắc chắn mình được tha thứ, miễn là người đó thật sự thống hối về các lầm lạc của mình’. Đức Kitô, Đấng đã chết cho tất cả mọi người, muốn rằng: các cửa của sự tha thứ trong Hội Thánh của Người luôn rộng mở cho bất cứ ai bỏ tội lỗi trở về”.[30]

Sám hối là thái độ của hối nhân nhận ra những lỗi lầm, những lần phạm tội làm cắt đứt mối giao hòa với Thiên Chúa và xa cách anh chị em mình. Cầu nguyện sám hối giúp tội nhân cảm nhận được tình trạng tâm hồn của mình, quyết tâm loại bỏ sự tự mãn và tự kiêu. Đây là bước khởi đầu quan trọng để bước vào con đường hoán cải và sống một đời sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Hơn thế, lời cầu nguyện sám hối không chỉ là sự nhìn nhận tội lỗi mà còn là một lời khẩn xin ơn tha thứ, một hành động khiêm nhường, nhìn nhận sự yếu đuối tội lỗi của mình và hoàn toàn trông cậy vào lòng thương xót tha thứ của Chúa, để được giao hòa lại cùng Chúa và anh chị em. Sách Châm Ngôn đã nói rằng: “Kẻ giấu tội mình sẽ không thành đạt, nhưng ai xưng thú và chừa tội sẽ được xót thương” (Cn 28,13).

Trong lịch sử cứu độ, vua Đavid được nhắc đến không chỉ như một vị vua vĩ đại của Israel mà còn như một con người thành tâm khiêm hạ, với tâm hồn sám hối ăn năn sâu xa. Thánh vịnh 50, hay còn gọi là “Miserere – Xin thương xót con,” là lời cầu nguyện sám hối nổi tiếng của vua Đavid sau khi vua phạm tội nặng nề với Thiên Chúa qua sự kiện vua giết Urigia để chiếm đoạt vợ ông là Batseva (x. 2Sm 11,1-27). Qua lời cầu nguyện này, chúng ta nhận ra giá trị của lòng thống hối và sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho hối nhân.

Lời cầu nguyện sám hối của Thánh vịnh “Xin thương xót con” cho thấy vua Đavid đầy lòng tin tưởng vào lòng Chúa xót thương: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (c.3). Vua chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm, Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài… Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (cc.5&7). Vua xác tín rằng Chúa thật công minh khi xét xử: “Như vậy, Ngài thật công bằng khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (c.6). Rồi vua khẩn nài xin Chúa xóa bỏ lỗi lầm và xin thương thanh tẩy: “Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết” (c.9). “Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm” (c.11). Vua xác tín vào tình thương tha thứ của Chúa là Đấng trao ban niềm vui ơn cứu độ: “Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (c.13). “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (c.14). Và cuối cùng vua xin được ơn hoán cải để đổi mới tâm hồn và cách sống, quyết tâm làm chứng tá giúp mọi người lầm lỗi biết can đảm trở về: “đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (c.15). Vì Thiên Chúa vẫn là Đấng Giàu Lòng Xót Thương, sẵn sàng đón nhận tâm hồn sám hối: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (c.19).

Như vậy, Thánh vịnh 50 – Xin thương xót con đã cho thấy một tiến trình sám hối của một tâm hồn chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình là thánh vương Đavid. Dù là vương tướng nhưng khi đã phạm tội thì thành tâm khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân để xin ơn tha thứ của Chúa. Ở đây, vua Đavid thể hiện sự nhận thức rõ ràng về tội lỗi của mình. Vua không tìm cách biện minh, nhưng quỳ gối trước Thiên Chúa, xin ơn tha thứ. Tâm hồn tan nát giày vò và ăn năn sám hối của vua là mẫu gương cao quý cho mỗi chúng ta khi đối diện với sự yếu đuối và lỗi lầm của mình. Đây là bài học quý giá mời gọi chúng ta thành thật với bản thân và can đảm trở về với Chúa qua bí tích Hòa Giải.

Đàng khác, lời cầu nguyện xin Chúa xót thương của thánh vương Đavid cho thấy vua không chìm đắm trong tuyệt vọng nhưng tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ. Như ngôn sứ Êzêkiel đã nói: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33,11). Điều này nhấn mạnh rằng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn lớn hơn bất kỳ tội lỗi nào. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn thường nhắc nhớ rằng: “Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta”.[31]

Sau cùng, lời cầu nguyện sám hối của vua Đavid là lời nhắc nhớ mạnh mẽ rằng không ai trong chúng ta hoàn hảo, vì ai cũng là tội nhân, nhưng tất cả đều có cơ hội trở về với Thiên Chúa nhờ lòng thống hối chân thành. Lãnh nhận bí tích Hòa Giải là phương thế mà Chúa đã trao ban, nhờ đó chúng ta lại được giao hòa với Thiện Chúa và với cộng đoàn Hội Thánh. Và đó cũng là lời mời gọi tha thiết dành cho hết những ai tham gia các cuộc hành hương trong Năm Thánh.

9. Đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu

Cầu nguyện là mối dây liên kết mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, và chính Chúa Giêsu đã để lại một mẫu gương hoàn hảo về đời sống cầu nguyện. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Ngài thường xuyên dành thời gian để cầu nguyện, không chỉ để kết hợp với Chúa Cha, để tìm sống và thi hành thánh ý Chúa Cha, mà còn để dạy các môn đệ và nhân loại biết cách cầu nguyện sao cho đúng đắn. Việc cầu nguyện của Chúa Giêsu không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính cứu độ, vì qua đó, Ngài thể hiện sứ mạng cứu thế và tình yêu vô biên dành cho nhân loại.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Lời cầu nguyện của đức tin không hệ tại ở chỗ thưa: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’, nhưng là sẵn lòng thi hành thánh ý của Chúa Cha. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ Người đem vào lời cầu nguyện sự quan tâm cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa”.[32] Và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã chỉ ra cho thấy rằng chính trong Ngôi Lời nhập thể và ở giữa chúng ta mà chúng ta học biết được nơi Chúa Giêsu mẫu gương cầu nguyện: “Trước tiên chiêm ngưỡng chính Người cầu nguyện, rồi lắng nghe Người dạy chúng ta cầu nguyện, để sau cùng nhận biết Người nhận lời cầu nguyện của chúng ta như thế nào”.[33]

– Chúa Giêsu cầu nguyện

Ngay từ khi còn nhỏ, Chúa Giêsu đã thể hiện tinh thần cầu nguyện của một tâm hồn gắn bó sâu xa với Thiên Chúa. Khi mới 12 tuổi, Người đã nói với Mẹ Maria và thánh Giuse: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Điều này cho thấy ý thức sâu sắc về mối tương quan mật thiết Cha - Con giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Chính ở đây, “tính cách mới mẻ của việc cầu nguyện trong thời viên mãn bắt đầu được mặc khải: đó là lời cầu nguyện của Người Con, mà Chúa Cha vẫn chờ mong nơi các con cái của Ngài, cuối cùng được chính Người Con thực hiện trong nhân tính của Người cùng với con người và vì con người”.[34]

Suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu thường xuyên lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1,35). Hành động này không chỉ thể hiện sự phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Cha mà còn là nguồn sức mạnh thiêng liêng để Ngài thi hành sứ vụ.

Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện hằng ngày mà còn cầu nguyện đặc biệt trước những quyết định và thời khắc quan trọng. Trước khi chọn mười hai tông đồ, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 6,12-13). Trước cuộc Thương Khó, Ngài cầu nguyện tha thiết trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22,42). Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu bày tỏ tâm tình vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, dù phải chịu đau khổ đến tột cùng. Đây là một bài học quý giá cho các Kitô hữu: cầu nguyện không phải để thay đổi ý Chúa mà để tìm thấy sức mạnh thi hành thánh ý Ngài.

Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho chính mình mà còn dành nhiều thời gian cầu nguyện cho các môn đệ và cho toàn thể nhân loại. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài đã dâng lời nguyện tha thiết: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta… Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,11.19). Đỉnh cao của lời cầu nguyện này chính là trên thập giá, khi Người cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cử chỉ này không chỉ thể hiện lòng thương xót vô biên mà còn mời gọi các tín hữu noi gương Người để sống yêu thương và tha thứ.

– Chúa Giêsu dạy cầu nguyện

Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện mà còn dạy con người cách cầu nguyện đúng đắn. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã chỉ cho thấy Chúa Giêsu dạy về tâm tình khi cầu nguyện: tâm tình sám hối hòa giải trước khi dâng lễ vật (x. Mt 5,23-24); yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù, cho kẻ bách hại mình (x. Mt 5,44-45); cầu nguyện riêng tư nơi kín đáo trước sự hiện diện của Chúa (x. Mt 6,6); không lải nhải nhiều lời (x. Mt 6,7); thật lòng tha thứ (x. Mt 6,14-15); cầu nguyện với tâm hồn thanh khiết và lo tìm kiếm Nước Trời (x. Mt 6,21.25.33)…

Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến thái độ khi cầu nguyện: không hình thức, không phô trương, khoe khoang nhưng phải chân thành (x. Mt 6,5-8 ; Lc 18,9-14) và nhất là phải có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì “mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23; x. Mc 11,24; Mt 21,21; Mt 8-10; Mt 15,28…). Người còn dùng dụ ngôn để dạy về sự kiên trì trong cầu nguyện, như hình ảnh người bạn quấy rầy lúc nửa đêm (x. Lc 11,5-8) hay bà góa kêu xin quan tòa (x. Lc 18,1-8) và phải luôn có thái độ tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến (x. Mc 13,32-37; Lc 21, 34-36…)

Đặc biệt, khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện thì Ngài đã truyền dạy Kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-13). Đây không chỉ là một lời kinh mà còn là khuôn mẫu cho mọi lời cầu nguyện Kitô giáo, với nội dung bao gồm sự tôn vinh Thiên Chúa, xin cho ý Ngài được thực hiện, và cầu xin những nhu cầu hằng ngày, ơn tha thứ và sự trợ giúp của Thiên Chúa trước những thử thách và cám dỗ trong đời sống.

– Chúa Giêsu nhận lời cầu nguyện

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã dạy rằng: “Trong khi thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với Đức Giêsu đã được chính Người nhận lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống lại của Người. Đức Giêsu nhận lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời nói [của người bệnh phong (x. Mc 1,40-41), của ông Giairô (x. Mc 5,36), của người phụ nữ Canaan (x. Mc 7, 29), của người trộm lành (x. Lc 23, 39-43)], hay trong thinh lặng [của những kẻ khiêng người bất toại (x. Mc 2,5), của người đàn bà bị bệnh loạn huyết đụng chạm vào áo Người (x. Mc 5,28), nước mắt và dầu thơm của người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,37-38)]. Lời nài xin tha thiết của những người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy Ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (Mc 10,48 ) được sử dụng lại trong truyền thống Khẩn nguyện Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu luôn đáp lời cầu xin Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.

Quả thật, Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa nhân loại, Người chấp nhận chia sẻ kiếp người hèn yếu, Người cảm thông với nỗi khổ đau của phận người đau yếu bệnh tật, Người đồng hành với con người tội lỗi để lắng nghe, cứu chữa và giải thoát họ. “Chúa Giêsu không chỉ muốn chúng ta cầu nguyện như Ngài cầu nguyện, mà còn bảo đảm với chúng ta rằng, ngay cả khi những cố gắng cầu nguyện của chúng ta có thể hoàn toàn vô ích và không có kết quả, chúng ta luôn luôn có thể trông cậy vào lời cầu nguyện của Ngài. Chúng ta phải ý thức điều này: Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi” (Tiếp kiến chung, ngày 2 tháng 6 năm 2021).[35]

Vì thế, trong Năm Thánh 2025, như những người hành hương của hy vọng, chúng ta được mời gọi hướng lên Chúa Giêsu là nguồn hy vọng cứu độ của chúng ta để dâng lên Người những lời cầu nguyện cho những nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Như lời thư Do Thái rằng: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,14-16).

Kết luận

Năm Thánh thường kỳ 2025 đã được khai mở từ đêm Giáng Sinh 24.12.2024 và đã có các cuộc hành hương được tổ chức khắp nơi. Những đoàn người hành hương hân hoan tiến về các Đền thờ mở Cửa Thánh, về Đất thánh Israel, về các địa điểm được chỉ định để tìm nguồn sức mạnh từ chính Thiên Chúa và để lãnh nhận ơn Toàn xá trong Năm Thánh. Đó là niềm khát mong của đoàn người “ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84,6). Trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích rằng: “Khi đi từ nước này sang nước khác như thể biên giới đã bị xóa nhòa, khi đi từ thành phố này sang thành phố khác để chiêm ngưỡng thiên nhiên và các tác phẩm nghệ thuật, chúng ta có thể tận dụng những trải nghiệm và các nền văn hóa đa dạng để đón nhận cái đẹp. Cái đẹp ấy hòa quyện với lời cầu nguyện sẽ dẫn đến tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm”.[36]

“Cầu nguyện cộng tác mạnh mẽ vào kế hoạch Quan Phòng của Thiên Chúa. Nó có thể nhận được bất cứ điều gì, với điều kiện là trước hết và trên hết, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta ngày càng yêu mến Người nhiều hơn: ‘Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho’ (Mt 6,33)”. Và “nếu lời cầu nguyện của chúng ta được thực hiện một cách đúng đắn, chúng ta sẽ nhận được ân sủng quý giá hơn nữa vì ‘Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người’ (Tv 145,18). Và lời cầu nguyện nài xin, nếu thực sự nâng tâm hồn chúng ta lên với Thiên Chúa, sẽ đặt chúng ta vào một lời cầu nguyện tôn thờ, đền tạ, tri ân cách thân mật hơn, cũng như dẫn đưa chúng ta tới sự cầu nguyện hiệp nhất”. [37]

Việc cầu nguyện không thể thiếu trong các cuộc hành hương. Và việc cầu nguyện được thực hiện trong việc tham dự các cử hành phụng vụ chính thức của Hội Thánh cũng như các thực hành đạo đức bình dân. Việc cầu nguyện có thể diễn ra theo tính cách cộng đoàn hay cá nhân. Ý hướng và tâm tình cầu nguyện cần được xác định cho các cuộc hành hương của cá nhân hay cộng đoàn.

Chúng ta ý thức rằng có nhiều ân sủng giúp chúng ta đạt được điều cầu xin. Đối với chúng ta hành hương là cơ hội thuận tiện để dâng lên Chúa những lời nguyện cầu của chúng ta, bởi vì đó là thời điểm mà chúng ta dễ dàng hơn để tìm được sự kết hợp những phẩm chất cần thiết cho hiệu quả của lời cầu nguyện chúng ta: sự chân thành, lòng khiêm tốn, niềm tin tưởng và sự kiên nhẫn. Hy vọng rằng những gợi ý trên đây sẽ giúp tạo bầu khí và tâm tình cầu nguyện cho cuộc hành hương tốt lành, để rồi những cuộc hành hương tiếp theo mà chúng ta có thể tham dự sẽ thực sự mang lại nhiều hoa trái, nhờ được sinh động hóa bởi tinh thần sám hối và lời cầu nguyện.

Và trong Năm Thánh Những Người Hành Hương Của Hy Vọng, chúng ta nghe lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Cầu nguyện là sức mạnh trước hết của niềm hy vọng. Bạn cầu nguyện và niềm hy vọng sẽ lớn lên, tiến về phía trước. Tôi có thể nói rằng cầu nguyện mở ra cánh cửa hy vọng. Có hy vọng, nhưng tôi mở cửa bằng lời cầu nguyện của mình” (Tiếp kiến chung, ngày 20 tháng 5 năm 2020).[38]

Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thảo
08/08/2025
trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 146 (Tháng 3 & 4 năm 2025)

------------------------------- 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây